Viết đoạn văn nêu cảm nhận của em về bài thơ Bài Ca Nhà Tranh Bị Gió Thu Phá.giúp mình với
0 bình luận về “Viết đoạn văn nêu cảm nhận của em về bài thơ Bài Ca Nhà Tranh Bị Gió Thu Phá.giúp mình với”
Đời Đường – Trung Quốc trong khoảng những năm 618-907 thi ca nghệ thuật phát triển vô cùng mạnh mẽ và thu được những thành tựu rực rỡ. Với hơn 2.300 thi sĩ và khoảng hơn 48.000 bài, thơ Đường được liệt vào hàng thơ ca ưu tú nhất của nhân loại. Trong số đó không thể không kể đến Đỗ Phủ (712- 770) nhà thơ giàu lòng yêu nước thương dân, được tôn vinh là “thi thánh”. Tính hiện thực và tinh thần nhân đạo là chủ đề xuyên suốt trong thơ. Bài thơ Bài ca nhà tranh bị gió thu phá là một trong những bài thơ như vậy. Bài thơ này được xem là một trong những bài thơ hay nhất trong số 100 bài tiêu biểu của Đỗ Phủ được sáng tác vào những năm cuối đời sống ở Thành Đô. Cùng thời gian đó loạn An Lộc Sơn vẫn chưa dứt, bài thơ lấy gốc sâu xa từ điệu dân ca cổ. Đã có rất nhiều nhà thơ có cách viết thế ca này: Thu Phô ca (Lý Bạch), Trường hận ca (Bạch Cư Dị). Mở đầu bài thơ Bài ca nhà tranh bị gió thu phá như kể lại về trận gió thu. Đây không phải là cơn gió heo may mát lành mà đây là một trận bão tố, cơn lốc vào tháng tám Gió thét gào.Tháng tám, thu cao, gió thét gào,Cuộn mất ba lớp tranh nhà taTranh bay sang sông rải khắp bờ,Mảnh cao treo tót ngọn rừng xaMảnh thấp quay lộn vào mương sa. Căn nhà lợp tranh yếu ớt bị cơn thu phong lật tung cuộn bay khắp nơi. Có tấm tranh bay rải khắp bờ sông. Có tấm bay tận rừng xa, có tấm rơi nơi mương nước… Việc lặp lại từ tranh đến 2, 3 lần chứng tỏ trận bão tố rất ghê gớm. Căn nhà được bạn bè giúp đỡ để nương thân qua ngày giờ đây tan thương. Ngước nhìn từng tấm tranh theo gió bay đi mà lòng xót xa, bất lực. Tiếng thơ như lời than thở, khóc lóc cho cảnh sống khổ cực của thi nhân. Sự đau đớn xót xa được thể hiện sâu sắc hơn ở khổ thơ kế tiếp. Nhà thơ phải chứng kiến sự phá phách căn nhà của mình cùng với trận bão tố mà nhà thơ gọi là “đạo tặc”.Trẻ con thôn nam khinh ta già không sức,Nỡ nhè trước mặt xô cướp giật,Cắp tranh đi tuốt vào luỹ treMôi khô miệng cháy gào chẳng đượcQuay về, chống gậy lòng ấm ức. Chiến tranh liên miên, đời sống nhân dân vô cùng cực khổ, loạn lạc. Đạo đức suy đồi đến cùng cực. Lũ trẻ hàng xóm không ai dạy dỗ, không chỗ học hành chúng ngang tàng kéo đến cướp tranh nhà Đỗ Phủ. Chúng không còn biết lễ giáo, lễ phép gì nữa. Chúng khinh nhà thơ “già yếu”, trơ tráo lạnh lùng trước tiếng kêu than “Môi khô miệng cháy” của tác giả. Vậy là sau thiên tai, gia đình nhà thơ lại gặp nạn “Đạo tặc”. Trước mắt nhà thơ là lũ quần đồng, hạ lưu, kẻ cướp. Đó chính là sản phẩm của một xã hội đang trên đà xuống dốc. Người người sống với nhau gian tham, xã hội thì đảo điên; tấm lòng nhà thơ đau đớn vô cùng, nhìn cuộc đời, con người trong xã hội mà lòng ấm sức, căm hận biết bao. Muốn gào lên, thét lên mà không nói thành lời. Vậy là căn nhà bị gió phá, lũ đạo tặc phá. Nó làm sao đủ sức chống lại những trận cuồng phong, mưa rét đêm thâu. Trời mưa rả rích đêm thâu mà mái nhà bị gió thu phá nát. Gió lặng, mây đen phủ kín bầu trời. Mưa tầm tã suốt đêm thâu, nhà dột không ngủ được. Đoạn thơ nêu lên một hiện thực đau lòng và khốn khổ của nhà thơ trong đêm mưa.Mền vải lâu năm lạnh tựa sắtCon nằm xấu nết đạp lót nátĐầu giường nhà dột chẳng chừa đâuDày hạt mưa, mưa mưa chẳng dứt. Tuổi già, sức yếu, bệnh tật… lại phải ngồi dưới mưa, trong thâm tâm Đỗ Phủ thương mình thì ít nhưng thương cho vợ con, gia đình thì nhiều. Nỗi đau như dồn nén lại thành một khối, trút một con người bất hạnh, đau khổ gần cả cuộc đời. Nhà thơ như thấy mưa lâu hơn, nhiều hơn, đêm như dài hơn và nỗi buồn thương không dứt.Từ trải cơn loạn ít ngủ nghêĐêm dài ướt át sao cho trót? Thật là phúc bất trùng lai, hoạ vô đơn chí. Tai hoạ với nhà thơ là một đêm thu trời mưa nhà dột. Thân già, sức yếu ngồi co ro trong mưa rét, nhìn vợ con đang nằm dưới mưa lòng sao không đau quặn. Cái nghèo nó đeo đẳng mãi, chăn cũ lâu năm con đạp rách, nhà dột… Sự cùng cực của một gia đình tàn tạ dưới thời loạn lạc, li tán. Trong đêm mưa rét mất ngủ ấy, nỗi lòng nhà thơ vẫn tin yêu vào cuộc sống, chất nhân văn vẫn dâng trào lo cho đời cho dân cho nước.Ước được nhà rộng muôn ngàn gianChe khắp thiên hạ kẻ sĩ nghèo đều hân hoanGió mưa chẳng núng, vững như thạch bàn!Than ôi! bao giờ nhà ấy sừng sững dựng trước mắtRiêng lều ta nát, chịu chết rét cũng được! Trong nỗi đau thương phũ phàng của cuộc đời, con người ta rất dễ rơi vào sự khủng hoảng tinh thần. Đôi khi gục đầu cam chịu, than thân trách phận nhưng với Đỗ Phủ thì hoàn toàn khác, ông ngồi trong đêm mưa lạnh cóng, có người sẽ nghĩ rằng ông sẽ ước có mái lều, tấm chăn, bát cơm… cho vợ con và bản thân ông khỏi vất vả. Thật bất ngờ trong niềm mong ước của ông, ước mơ có một ngôi nhà kỳ vĩ: “Muôn ngàn gian” vô cùng vững chắc. Ngôi nhà ấy không phải để che cho ông và gia đình mà “Che khắp thiên hạ kẻ sĩ nghèo đều hân hoan”. Ông thương cho những người nghèo khổ không chỗ trú thân, che nắng che mưa cho dân. Thật là một tấm lòng nhân hậu. Yêu thương bao la Thường xuyên lo cho dân nghèo, than thở đến nóng gan, cháy ruột” dù cuộc đời đầy rẫy nhưng vất vả, loạn lạc. Và vì vậy ông rất đồng cảm cho cảnh ngộ muôn dân tan nát gia đình vì chiến tranh, đói khổ vì nghèo túng, bệnh tật. Đau xót cho dân cho nước, ước mơ đất nước thái bình, nhân dân no ấm nên ông quên đi cái khổ cực của bản thân. Có thể nói Đỗ Phủ có tình thương lớn của một nhà nho chân chính sống và ứng xử theo phương châm “Lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Qua bài thơ trên ta thấy Đỗ Phủ mang nặng tấm lòng nhân ái bao la của một con người trải qua nhiều bất hạnh giữa thời loạn lạc. Ông mong mỏi, và khao khát hạnh phúc cho muôn dân. Bài thơ chất chứa chất nhân văn cao cả của bậc vĩ nhân quên đi bản thân mình mà lo cho dân cho nước.
Đỗ Phủ là một nhà thơ lớn đời Đường của Trung Quốc với nhiều tác phẩm xuất sắc, đóng góp to lớn vào nền văn học cổ đại Trung Hoa. Trong thơ của Đỗ Phủ, tính hiện thực và tinh thần nhân đạo là chủ đề xuyên suốt. Bài thơ “Bài ca nhà tranh bị gió thu phá” là một trong những bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ của Đỗ Phủ.
Trong ấn tượng của nhiều người, mùa thu chắc hẳn là mùa của cơn gió heo may se se lạnh, của lá vàng rơi xào xạc, lãng mạn trữ tình, thế nhưng trong thơ của Đỗ Phủ mùa thu không hề hiền dịu như những gì người ta vẫn nghĩ. Gió thu ở đây là hẳn một cơn bão tố, thét gào, chứa đựng đầy hiểm nguy, khiến con người nhìn trông cảnh tan tác mà bất lực.
“Tháng tám, thu cao, gió thét gào, Cuộn mất ba lớp tranh nhà ta Tranh bay sang sông rải khắp bờ, Mảnh cao treo tót ngọn rừng xa Mảnh thấp quay lộn vào mương sa.”
Đỗ Phủ đã dùng phương thức tự sự để kể lại câu chuyện của chính ngôi nhà tranh nhà mình, từ đó bộc lộ sự dữ dội và mạnh mẽ của cơn gió lốc mùa thu. Sự dữ dội và mạnh mẽ ấy được tác giả biểu đạt trông qua các từ có sắc thái biểu cảm cao như “rải khắp”, “treo tót”, “quay lộn”, từ đó độc giả có thể hình dung được tình trạng khốn đốn, tan đàn xẻ nghé của ngôi nhà tranh mới lợp không bao lâu. Mảnh thì bày qua cả sông rải lung tung bên bờ bên kia, mảnh lại bị gió cuốn lên tít tận rừng ca rồi nằm vắt vẻo trên ngọn cây, mảnh khác thê thảm hơn thì bị gió dập vào những mương nước, tan nát không còn gì. Một ngôi nhà tranh vốn đã yếu gầy lại gặp cơn gió dữ thì chắc mẩm cũng chẳng còn lại chi, với giọng tự sự xen sự buồn phiền, bất lực của tác giả độc giả từ đó có thẻ dễ dàng nhận ra sự khắc nghiệt của thời tiết, cùng với nỗi khốn đốn vất vả của Đỗ Phủ lúc bấy giờ.
Trong những câu thơ tiếp sự đau đớn xót xa của tác giả không chỉ nằm ở sự bất lực khi căn nhà bị gió thu phá mà còn là ở nỗi buồn bã khi thấy tình cảnh nhân dân khốn đốn, dẫn đến sự suy đồi đạo đức, tình trạng cướp giật hiện hữu khắp nơi, lễ nghĩa đã không còn được giáo dục một cách cẩn thận.
“Trẻ con thôn nam khinh ta già không sức, Nỡ nhè trước mặt xô cướp giật, Cắp tranh đi tuốt vào luỹ tre Môi khô miệng cháy gào chẳng được Quay về, chống gậy lòng ấm ức”
Trẻ con không biết kính già yêu trẻ, không có tấm lòng nhân hậu, giúp đỡ người khác trái lại lại nhè đương lúc người ta gặp hoạn nạn, già yếu để trở thành phường đạo tặc, thừa nước đục thả câu. Nỡ lòng cướp đi những bó tranh bay tán loạn từ nhà của Đỗ Phủ rồi chạy biến vào lũy tre làng mà không một chút ăn năn. Chợt nghĩ thời buổi ấy, loạn An Lộc Sơn nó khủng khiếp đến nhường nào mà đến độ người ta tranh cướp cả cái mái tranh của nhau, cả trẻ con cũng trở thành phường đầu trộm đuôi cướp, không có tôn ti trật tự, không được giáo dục đường hoàng? Nghĩ mà xót xa, nhìn lại viễn cảnh lực bất tòng tâm của Đỗ Phủ người ta lại càng cảm thán không thôi “Môi khô miệng cháy gào chẳng được” thể hiện sự cùng kiệt về sức lực, sự ốm yếu của chính bản thân tác giả, cũng như nỗi ấm ức, xót xa trước số phận của cuộc đời. Nghĩ lại căn nhà tranh tan tác, nghĩ đến cảnh đạo đức nhân dân xuống cấp trầm trọng tác giả chỉ biết “Quay về, chống gậy lòng ấm ức”.
Trở lại với căn nhà bị gió thu phá tanh bành, tác giả không khỏi cảm thấy đau đớn và bất lực trước thực trạng cuộc sống khốn khó của gia đình, con cái, bản thân lại ốm yếu già nua phải trông nhờ vào bạn bè.
“Mền vải lâu năm lạnh tựa sắt Con nằm xấu nết đạp lót nát Đầu giường nhà dột chẳng chừa đâu Dày hạt mưa, mưa mưa chẳng dứt. Từ trải cơn loạn ít ngủ nghê Đêm dài ướt át sao cho trót?”
Vốn dĩ rằng căn nhà tranh nguyên lành cũng đã chẳng ấm áp gì cho cam, nay lại bị gió thu tàn phá cho toang hoác cả ra thì tấm mềm vải lâu năm lại càng trở nên lạnh lẽo, cái lạnh ấy được tác giả dùng cảm giác khi chạm vào “sắt” để diễn tả, lạnh đến ghê người. Gia cảnh nghèo khó của tác giả không chỉ hiện lên qua “mền vải lâu năm” mà còn thông qua cả hình ảnh tấm “lót nát”, nghĩ thực cảnh ấy ai mà không cảm thấy xót xa, uất ức cho đặng. Thế nhưng trời nào có thương cho kẻ tài năng đức hạnh là Đỗ Phủ, trời vẫn cứ “dày hạt mưa, mưa mưa chẳng dứt” mặc kệ rằng “Đầu giường dột dột chẳng chừa đâu”. Những nỗi khốn khó vất vả xưa cũ trong cơn loạn lạc đem đến cho Đỗ Phủ nhiều phiền muộn, từ đó giấc ngủ cũng ít đi, nay lại gặp cảnh bần hàn cơ cực giấc ngủ lại càng không đến, chịu rét, chịu lạnh mắt trân trân nhìn cảnh ướt át của căn nhà tranh mà lòng không khỏi ngao ngán, bất lực.
Từ chính những nỗi đau đớn, xót xa ấy tác giả đã bộc lộ niềm mong ước của bản thân, thế nhưng đó không phải là mong ước vụ lợi cho cá nhân mà là niềm mong ước mang hạnh phúc đến cho muôn dân.
“Ước được nhà rộng muôn ngàn gian Che khắp thiên hạ kẻ sĩ nghèo đều hân hoan Gió mưa chẳng núng, vững như thạch bàn! Than ôi! bao giờ nhà ấy sừng sững dựng trước mắt Riêng lều ta nát, chịu chết rét cũng được!”
Từ thực cảnh cửa nhà tan hoang của mình, tác giả đã mong rằng bản thân có một căn “nhà rộng muôn ngàn gian”, để trở thành nơi che mưa chắn gió cho tất thảy kẻ nghèo hèn khốn khổ trong thiên hạ, những con người có cùng hoàn cảnh đau thương như bản thân mình. Ngôi nhà ấy không chỉ rộng lớn, mà còn mang những điều kiện lý tưởng rằng “gió mưa chẳng núng, vững như thạch bàn” không sợ bất kỳ một thiên tai nào tàn phá, có như thế nhân dân mới được an giấc ngủ ngon, chứ chẳng phải chịu cảnh ẩm ướt, rét lạnh như mình. Cứ ngỡ rằng, ước mơ ấy tác giả cũng tự dành cho mình một phần hưởng, thế nhưng không, ông lại nguyện rằng chỉ cần có ngôi nhà kia “sừng sững dựng trước mắt”, thì bản thân ông với căn lều nát chịu chết rét cũng cam lòng. Điều đó cho ta thấy tấm lòng nhân hậu, vị tha, đức tính cao thượng của tác giả trước cuộc đời, trước nỗi khốn khó của nhân dân, biết lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ. Chỉ cần nhân dân được ấm no hạnh phúc, bản thân ông dẫu có hy sinh cũng chẳng xá chi ngại ngần. Tấm lòng ấy quả thực vô cùng đáng trọng đáng mến. Nếu liên tưởng sâu xa hơn, ta cũng có thể hiểu ngôi nhà muôn ngàn gian mà Đỗ Phủ nhắc đến, chính là một quốc gia thái bình thịnh trị, vững bền tựa bàn thạch, không bị nhiễu loạn bởi loạn trong, giặc ngoài, từ đó nhân dân ấm no, ai cũng được có cho mình một căn nhà để an cư lạc nghiệp, sẽ chẳng còn căn nhà tranh khốn khổ nào bị gió thu thổi phá tiêu điều như này nữa.
Bài ca nhà tranh bị gió thu phá là một bài thơ hay và nổi tiếng nhất trong sự nghiệp sáng tác của Đỗ Phủ, với bút pháp nhân đạo sâu sắc có ảnh hưởng sâu rộng tới nền thi ca Trung Quốc sau này. Bài thơ mở đầu là sự bất lực, đau xót trước viễn cảnh ngôi nhà tranh bị gió thu phá, cùng cảnh nhân dân loạn lạc, sau đó vượt qua tất cả những nỗi uất ức, đớn đau tác giả đã thể hiện tấm lòng nhân đạo sâu sắc của mình với một ước mơ về căn nhà lý tưởng, thể hiện tấm lòng biết hy sinh và suốt đời lo nghĩ cho dân cho nước của một tâm hồn cao thượng được người đời mệnh danh là Thi Thánh.
Đời Đường – Trung Quốc trong khoảng những năm 618-907 thi ca nghệ thuật phát triển vô cùng mạnh mẽ và thu được những thành tựu rực rỡ. Với hơn 2.300 thi sĩ và khoảng hơn 48.000 bài, thơ Đường được liệt vào hàng thơ ca ưu tú nhất của nhân loại. Trong số đó không thể không kể đến Đỗ Phủ (712- 770) nhà thơ giàu lòng yêu nước thương dân, được tôn vinh là “thi thánh”. Tính hiện thực và tinh thần nhân đạo là chủ đề xuyên suốt trong thơ. Bài thơ Bài ca nhà tranh bị gió thu phá là một trong những bài thơ như vậy. Bài thơ này được xem là một trong những bài thơ hay nhất trong số 100 bài tiêu biểu của Đỗ Phủ được sáng tác vào những năm cuối đời sống ở Thành Đô. Cùng thời gian đó loạn An Lộc Sơn vẫn chưa dứt, bài thơ lấy gốc sâu xa từ điệu dân ca cổ. Đã có rất nhiều nhà thơ có cách viết thế ca này: Thu Phô ca (Lý Bạch), Trường hận ca (Bạch Cư Dị). Mở đầu bài thơ Bài ca nhà tranh bị gió thu phá như kể lại về trận gió thu. Đây không phải là cơn gió heo may mát lành mà đây là một trận bão tố, cơn lốc vào tháng tám Gió thét gào.Tháng tám, thu cao, gió thét gào,Cuộn mất ba lớp tranh nhà taTranh bay sang sông rải khắp bờ,Mảnh cao treo tót ngọn rừng xaMảnh thấp quay lộn vào mương sa. Căn nhà lợp tranh yếu ớt bị cơn thu phong lật tung cuộn bay khắp nơi. Có tấm tranh bay rải khắp bờ sông. Có tấm bay tận rừng xa, có tấm rơi nơi mương nước… Việc lặp lại từ tranh đến 2, 3 lần chứng tỏ trận bão tố rất ghê gớm. Căn nhà được bạn bè giúp đỡ để nương thân qua ngày giờ đây tan thương. Ngước nhìn từng tấm tranh theo gió bay đi mà lòng xót xa, bất lực. Tiếng thơ như lời than thở, khóc lóc cho cảnh sống khổ cực của thi nhân. Sự đau đớn xót xa được thể hiện sâu sắc hơn ở khổ thơ kế tiếp. Nhà thơ phải chứng kiến sự phá phách căn nhà của mình cùng với trận bão tố mà nhà thơ gọi là “đạo tặc”.Trẻ con thôn nam khinh ta già không sức,Nỡ nhè trước mặt xô cướp giật,Cắp tranh đi tuốt vào luỹ treMôi khô miệng cháy gào chẳng đượcQuay về, chống gậy lòng ấm ức. Chiến tranh liên miên, đời sống nhân dân vô cùng cực khổ, loạn lạc. Đạo đức suy đồi đến cùng cực. Lũ trẻ hàng xóm không ai dạy dỗ, không chỗ học hành chúng ngang tàng kéo đến cướp tranh nhà Đỗ Phủ. Chúng không còn biết lễ giáo, lễ phép gì nữa. Chúng khinh nhà thơ “già yếu”, trơ tráo lạnh lùng trước tiếng kêu than “Môi khô miệng cháy” của tác giả. Vậy là sau thiên tai, gia đình nhà thơ lại gặp nạn “Đạo tặc”. Trước mắt nhà thơ là lũ quần đồng, hạ lưu, kẻ cướp. Đó chính là sản phẩm của một xã hội đang trên đà xuống dốc. Người người sống với nhau gian tham, xã hội thì đảo điên; tấm lòng nhà thơ đau đớn vô cùng, nhìn cuộc đời, con người trong xã hội mà lòng ấm sức, căm hận biết bao. Muốn gào lên, thét lên mà không nói thành lời. Vậy là căn nhà bị gió phá, lũ đạo tặc phá. Nó làm sao đủ sức chống lại những trận cuồng phong, mưa rét đêm thâu. Trời mưa rả rích đêm thâu mà mái nhà bị gió thu phá nát. Gió lặng, mây đen phủ kín bầu trời. Mưa tầm tã suốt đêm thâu, nhà dột không ngủ được. Đoạn thơ nêu lên một hiện thực đau lòng và khốn khổ của nhà thơ trong đêm mưa.Mền vải lâu năm lạnh tựa sắtCon nằm xấu nết đạp lót nátĐầu giường nhà dột chẳng chừa đâuDày hạt mưa, mưa mưa chẳng dứt. Tuổi già, sức yếu, bệnh tật… lại phải ngồi dưới mưa, trong thâm tâm Đỗ Phủ thương mình thì ít nhưng thương cho vợ con, gia đình thì nhiều. Nỗi đau như dồn nén lại thành một khối, trút một con người bất hạnh, đau khổ gần cả cuộc đời. Nhà thơ như thấy mưa lâu hơn, nhiều hơn, đêm như dài hơn và nỗi buồn thương không dứt.Từ trải cơn loạn ít ngủ nghêĐêm dài ướt át sao cho trót? Thật là phúc bất trùng lai, hoạ vô đơn chí. Tai hoạ với nhà thơ là một đêm thu trời mưa nhà dột. Thân già, sức yếu ngồi co ro trong mưa rét, nhìn vợ con đang nằm dưới mưa lòng sao không đau quặn. Cái nghèo nó đeo đẳng mãi, chăn cũ lâu năm con đạp rách, nhà dột… Sự cùng cực của một gia đình tàn tạ dưới thời loạn lạc, li tán. Trong đêm mưa rét mất ngủ ấy, nỗi lòng nhà thơ vẫn tin yêu vào cuộc sống, chất nhân văn vẫn dâng trào lo cho đời cho dân cho nước.Ước được nhà rộng muôn ngàn gianChe khắp thiên hạ kẻ sĩ nghèo đều hân hoanGió mưa chẳng núng, vững như thạch bàn!Than ôi! bao giờ nhà ấy sừng sững dựng trước mắtRiêng lều ta nát, chịu chết rét cũng được! Trong nỗi đau thương phũ phàng của cuộc đời, con người ta rất dễ rơi vào sự khủng hoảng tinh thần. Đôi khi gục đầu cam chịu, than thân trách phận nhưng với Đỗ Phủ thì hoàn toàn khác, ông ngồi trong đêm mưa lạnh cóng, có người sẽ nghĩ rằng ông sẽ ước có mái lều, tấm chăn, bát cơm… cho vợ con và bản thân ông khỏi vất vả. Thật bất ngờ trong niềm mong ước của ông, ước mơ có một ngôi nhà kỳ vĩ: “Muôn ngàn gian” vô cùng vững chắc. Ngôi nhà ấy không phải để che cho ông và gia đình mà “Che khắp thiên hạ kẻ sĩ nghèo đều hân hoan”. Ông thương cho những người nghèo khổ không chỗ trú thân, che nắng che mưa cho dân. Thật là một tấm lòng nhân hậu. Yêu thương bao la Thường xuyên lo cho dân nghèo, than thở đến nóng gan, cháy ruột” dù cuộc đời đầy rẫy nhưng vất vả, loạn lạc. Và vì vậy ông rất đồng cảm cho cảnh ngộ muôn dân tan nát gia đình vì chiến tranh, đói khổ vì nghèo túng, bệnh tật. Đau xót cho dân cho nước, ước mơ đất nước thái bình, nhân dân no ấm nên ông quên đi cái khổ cực của bản thân. Có thể nói Đỗ Phủ có tình thương lớn của một nhà nho chân chính sống và ứng xử theo phương châm “Lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Qua bài thơ trên ta thấy Đỗ Phủ mang nặng tấm lòng nhân ái bao la của một con người trải qua nhiều bất hạnh giữa thời loạn lạc. Ông mong mỏi, và khao khát hạnh phúc cho muôn dân. Bài thơ chất chứa chất nhân văn cao cả của bậc vĩ nhân quên đi bản thân mình mà lo cho dân cho nước.
Chúc bạn làm tốt!
Đỗ Phủ là một nhà thơ lớn đời Đường của Trung Quốc với nhiều tác phẩm xuất sắc, đóng góp to lớn vào nền văn học cổ đại Trung Hoa. Trong thơ của Đỗ Phủ, tính hiện thực và tinh thần nhân đạo là chủ đề xuyên suốt. Bài thơ “Bài ca nhà tranh bị gió thu phá” là một trong những bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ của Đỗ Phủ.
Trong ấn tượng của nhiều người, mùa thu chắc hẳn là mùa của cơn gió heo may se se lạnh, của lá vàng rơi xào xạc, lãng mạn trữ tình, thế nhưng trong thơ của Đỗ Phủ mùa thu không hề hiền dịu như những gì người ta vẫn nghĩ. Gió thu ở đây là hẳn một cơn bão tố, thét gào, chứa đựng đầy hiểm nguy, khiến con người nhìn trông cảnh tan tác mà bất lực.
“Tháng tám, thu cao, gió thét gào,
Cuộn mất ba lớp tranh nhà ta
Tranh bay sang sông rải khắp bờ,
Mảnh cao treo tót ngọn rừng xa
Mảnh thấp quay lộn vào mương sa.”
Đỗ Phủ đã dùng phương thức tự sự để kể lại câu chuyện của chính ngôi nhà tranh nhà mình, từ đó bộc lộ sự dữ dội và mạnh mẽ của cơn gió lốc mùa thu. Sự dữ dội và mạnh mẽ ấy được tác giả biểu đạt trông qua các từ có sắc thái biểu cảm cao như “rải khắp”, “treo tót”, “quay lộn”, từ đó độc giả có thể hình dung được tình trạng khốn đốn, tan đàn xẻ nghé của ngôi nhà tranh mới lợp không bao lâu. Mảnh thì bày qua cả sông rải lung tung bên bờ bên kia, mảnh lại bị gió cuốn lên tít tận rừng ca rồi nằm vắt vẻo trên ngọn cây, mảnh khác thê thảm hơn thì bị gió dập vào những mương nước, tan nát không còn gì. Một ngôi nhà tranh vốn đã yếu gầy lại gặp cơn gió dữ thì chắc mẩm cũng chẳng còn lại chi, với giọng tự sự xen sự buồn phiền, bất lực của tác giả độc giả từ đó có thẻ dễ dàng nhận ra sự khắc nghiệt của thời tiết, cùng với nỗi khốn đốn vất vả của Đỗ Phủ lúc bấy giờ.
Trong những câu thơ tiếp sự đau đớn xót xa của tác giả không chỉ nằm ở sự bất lực khi căn nhà bị gió thu phá mà còn là ở nỗi buồn bã khi thấy tình cảnh nhân dân khốn đốn, dẫn đến sự suy đồi đạo đức, tình trạng cướp giật hiện hữu khắp nơi, lễ nghĩa đã không còn được giáo dục một cách cẩn thận.
“Trẻ con thôn nam khinh ta già không sức,
Nỡ nhè trước mặt xô cướp giật,
Cắp tranh đi tuốt vào luỹ tre
Môi khô miệng cháy gào chẳng được
Quay về, chống gậy lòng ấm ức”
Trẻ con không biết kính già yêu trẻ, không có tấm lòng nhân hậu, giúp đỡ người khác trái lại lại nhè đương lúc người ta gặp hoạn nạn, già yếu để trở thành phường đạo tặc, thừa nước đục thả câu. Nỡ lòng cướp đi những bó tranh bay tán loạn từ nhà của Đỗ Phủ rồi chạy biến vào lũy tre làng mà không một chút ăn năn. Chợt nghĩ thời buổi ấy, loạn An Lộc Sơn nó khủng khiếp đến nhường nào mà đến độ người ta tranh cướp cả cái mái tranh của nhau, cả trẻ con cũng trở thành phường đầu trộm đuôi cướp, không có tôn ti trật tự, không được giáo dục đường hoàng? Nghĩ mà xót xa, nhìn lại viễn cảnh lực bất tòng tâm của Đỗ Phủ người ta lại càng cảm thán không thôi “Môi khô miệng cháy gào chẳng được” thể hiện sự cùng kiệt về sức lực, sự ốm yếu của chính bản thân tác giả, cũng như nỗi ấm ức, xót xa trước số phận của cuộc đời. Nghĩ lại căn nhà tranh tan tác, nghĩ đến cảnh đạo đức nhân dân xuống cấp trầm trọng tác giả chỉ biết “Quay về, chống gậy lòng ấm ức”.
Trở lại với căn nhà bị gió thu phá tanh bành, tác giả không khỏi cảm thấy đau đớn và bất lực trước thực trạng cuộc sống khốn khó của gia đình, con cái, bản thân lại ốm yếu già nua phải trông nhờ vào bạn bè.
“Mền vải lâu năm lạnh tựa sắt
Con nằm xấu nết đạp lót nát
Đầu giường nhà dột chẳng chừa đâu
Dày hạt mưa, mưa mưa chẳng dứt.
Từ trải cơn loạn ít ngủ nghê
Đêm dài ướt át sao cho trót?”
Vốn dĩ rằng căn nhà tranh nguyên lành cũng đã chẳng ấm áp gì cho cam, nay lại bị gió thu tàn phá cho toang hoác cả ra thì tấm mềm vải lâu năm lại càng trở nên lạnh lẽo, cái lạnh ấy được tác giả dùng cảm giác khi chạm vào “sắt” để diễn tả, lạnh đến ghê người. Gia cảnh nghèo khó của tác giả không chỉ hiện lên qua “mền vải lâu năm” mà còn thông qua cả hình ảnh tấm “lót nát”, nghĩ thực cảnh ấy ai mà không cảm thấy xót xa, uất ức cho đặng. Thế nhưng trời nào có thương cho kẻ tài năng đức hạnh là Đỗ Phủ, trời vẫn cứ “dày hạt mưa, mưa mưa chẳng dứt” mặc kệ rằng “Đầu giường dột dột chẳng chừa đâu”. Những nỗi khốn khó vất vả xưa cũ trong cơn loạn lạc đem đến cho Đỗ Phủ nhiều phiền muộn, từ đó giấc ngủ cũng ít đi, nay lại gặp cảnh bần hàn cơ cực giấc ngủ lại càng không đến, chịu rét, chịu lạnh mắt trân trân nhìn cảnh ướt át của căn nhà tranh mà lòng không khỏi ngao ngán, bất lực.
Từ chính những nỗi đau đớn, xót xa ấy tác giả đã bộc lộ niềm mong ước của bản thân, thế nhưng đó không phải là mong ước vụ lợi cho cá nhân mà là niềm mong ước mang hạnh phúc đến cho muôn dân.
“Ước được nhà rộng muôn ngàn gian
Che khắp thiên hạ kẻ sĩ nghèo đều hân hoan
Gió mưa chẳng núng, vững như thạch bàn!
Than ôi! bao giờ nhà ấy sừng sững dựng trước mắt
Riêng lều ta nát, chịu chết rét cũng được!”
Từ thực cảnh cửa nhà tan hoang của mình, tác giả đã mong rằng bản thân có một căn “nhà rộng muôn ngàn gian”, để trở thành nơi che mưa chắn gió cho tất thảy kẻ nghèo hèn khốn khổ trong thiên hạ, những con người có cùng hoàn cảnh đau thương như bản thân mình. Ngôi nhà ấy không chỉ rộng lớn, mà còn mang những điều kiện lý tưởng rằng “gió mưa chẳng núng, vững như thạch bàn” không sợ bất kỳ một thiên tai nào tàn phá, có như thế nhân dân mới được an giấc ngủ ngon, chứ chẳng phải chịu cảnh ẩm ướt, rét lạnh như mình. Cứ ngỡ rằng, ước mơ ấy tác giả cũng tự dành cho mình một phần hưởng, thế nhưng không, ông lại nguyện rằng chỉ cần có ngôi nhà kia “sừng sững dựng trước mắt”, thì bản thân ông với căn lều nát chịu chết rét cũng cam lòng. Điều đó cho ta thấy tấm lòng nhân hậu, vị tha, đức tính cao thượng của tác giả trước cuộc đời, trước nỗi khốn khó của nhân dân, biết lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ. Chỉ cần nhân dân được ấm no hạnh phúc, bản thân ông dẫu có hy sinh cũng chẳng xá chi ngại ngần. Tấm lòng ấy quả thực vô cùng đáng trọng đáng mến. Nếu liên tưởng sâu xa hơn, ta cũng có thể hiểu ngôi nhà muôn ngàn gian mà Đỗ Phủ nhắc đến, chính là một quốc gia thái bình thịnh trị, vững bền tựa bàn thạch, không bị nhiễu loạn bởi loạn trong, giặc ngoài, từ đó nhân dân ấm no, ai cũng được có cho mình một căn nhà để an cư lạc nghiệp, sẽ chẳng còn căn nhà tranh khốn khổ nào bị gió thu thổi phá tiêu điều như này nữa.
Bài ca nhà tranh bị gió thu phá là một bài thơ hay và nổi tiếng nhất trong sự nghiệp sáng tác của Đỗ Phủ, với bút pháp nhân đạo sâu sắc có ảnh hưởng sâu rộng tới nền thi ca Trung Quốc sau này. Bài thơ mở đầu là sự bất lực, đau xót trước viễn cảnh ngôi nhà tranh bị gió thu phá, cùng cảnh nhân dân loạn lạc, sau đó vượt qua tất cả những nỗi uất ức, đớn đau tác giả đã thể hiện tấm lòng nhân đạo sâu sắc của mình với một ước mơ về căn nhà lý tưởng, thể hiện tấm lòng biết hy sinh và suốt đời lo nghĩ cho dân cho nước của một tâm hồn cao thượng được người đời mệnh danh là Thi Thánh.
Nếu bạn thấy dài quá thì có thể lọc ý ra nha!
Chúc bạn học tốt