1 ĐẶC ĐIỂM CHUNG VÀ VAI TRÒ CỦA NGÀNH ĐỘNG VẬT NGUYÊN SINH 2 NÊU ĐẶC ĐIỂM CỦA HẢI QUỲ VÀ SAN HÔ 3 CẤU TAO CỦA SÁN LÁ GAN THIK NGHI VS DỜI SỐNG NHƯ THẾ

1 ĐẶC ĐIỂM CHUNG VÀ VAI TRÒ CỦA NGÀNH ĐỘNG VẬT NGUYÊN SINH
2 NÊU ĐẶC ĐIỂM CỦA HẢI QUỲ VÀ SAN HÔ
3 CẤU TAO CỦA SÁN LÁ GAN THIK NGHI VS DỜI SỐNG NHƯ THẾ NÀO
4 NÊU ĐẶC ĐIỂM CHỨNG TỎ GIUN ĐỐT CÓ TỔ CHỨC CƠ THẾ CAO HƠN GIUN TRÒN
GIẢI HỘ MIK VS MAI MIK PHẢI NỘP PLEASE!

0 bình luận về “1 ĐẶC ĐIỂM CHUNG VÀ VAI TRÒ CỦA NGÀNH ĐỘNG VẬT NGUYÊN SINH 2 NÊU ĐẶC ĐIỂM CỦA HẢI QUỲ VÀ SAN HÔ 3 CẤU TAO CỦA SÁN LÁ GAN THIK NGHI VS DỜI SỐNG NHƯ THẾ”

  1. 1Đặc điểm chung của động vật nguyên sinh vừa đúng cho loài sống tự do lẫn loài sống kí sinh là:

       – Cơ thể có kích thước hiển vi.

       – Cơ thể chỉ có cấu tạo 1 tế bào nhưng đảm nhiệm mọi chức năng sống.

       – Sinh sản vô tính theo kiểu phân đôi.

       – Phần lớn: dị dưỡng; di chuyển bằng chân giả, lông bơi hoặc roi bơi, một số không di chuyển.

    Nhóm động vật này là thức ăn của các loài cá nhỏ và cá con, các loài thân mềm (trai, ốc,..), giáp xác (tôm, cua, nhện nước,…), ấu trùng sống trong ao nuôi cá. Và tất cả các loài này lại là thức ăn của cá lớn trong ao.

    2

    Tuy một đầu san hô trông như một cơ thể sống, nhưng nó thực ra là đầu của nhiều cá thể giống nhau hoàn toàn về di truyền, đó là các polip. Các polip là các sinh vật đa bào với nguồn thức ăn là nhiều loại sinh vật nhỏ hơn, từ sinh vật phù du tới các loài cá nhỏ.

    Polip thường có đường kính một vài milimet, cấu tạo bởi một lớp biểu mô bên ngoài và một lớp mô bên trong giống như sứa được gọi là ngoại chất. Polip có hình dạng đối xứng trục với các xúc tu mọc quanh một cái miệng ở giữa – cửa duy nhất tới xoang vị (hay dạ dày), cả thức ăn và bã thải đều đi qua cái miệng này.

    Dendrogyra cylindricus

    Dạ dày đóng kín tại đáy polip, nơi biểu mô tạo một bộ xương ngoài được gọi là đĩa nền. Bộ xương này được hình thành bởi một vành hình khuyên chứa canxi ngày càng dày thêm (xem ở dưới). Các cấu trúc này phát triển theo chiều thẳng đứng và thành một dạng ống từ đáy polip, cho phép nó co vào trong bộ xương ngoài khi cần trú ẩn.

    Polip mọc bằng cách phát triển khoang hình cốc (calices) theo chiều dọc, đôi khi chia thành vách ngăn để tạo một đĩa nền mới cao hơn. Qua nhiều thế hệ, kiểu phát triển này tạo nên các cấu trúc san hô lớn chứa canxi, và lâu dài tạo thành các rạn san hô.

    Sự hình thành bộ xương ngoài chứa canxi là kết quả của việc polip kết lắng aragonit khoáng từ các ion canxi thu được từ trong nước biển. Tuy khác nhau tùy theo loài và điều kiện môi trường, tốc độ kết lắng có thể đạt mức 10 g/m² polip/ngày (0,3 aoxơ/ yard vuông/day). Điều này phụ thuộc mức độ ánh sáng, sản lượng ban đêm thấp hơn 90% so với giữa trưa.[5]

    Nematocyst phóng độc: Một nematocyst phản ứng với một con mồi gần đó đang chạm phải gai châm ngứa, nắp mở, tua châm cắm vào con mồi tiêm chất độc làm tê liệt con mồi, sau đó các xúc tu kéo con mồi vào miệng.

    Các xúc tu của polip bẫy mồi bằng cách sử dụng các tế bào châm được gọi là nematocyst. Đây là các tế bào chuyên bắt và làm tê liệt các con mồi như sinh vật phù du, khi có tiếp xúc, nó phản ứng rất nhanh bằng cách tiêm chất độc vào con mồi. Các chất độc này thường yếu, nhưng ở san hô lửa, nó đủ mạnh để gây tổn thương cho con người. Các loài sứa  hải quỳ cũng có nematocyst. Chất độc mà nematocyst tiêm vào con mồi có tác dụng làm tê liệt hoặc giết chết con mồi, sau đó các xúc tu kéo con mồi vào trong dạ dày của polip bằng một dải biểu

    mô co giãn được gọi là hầu.

    Cận cảnh các polip Montastrea cavernosa. Có thể thấy rõ các xúc tu.

    Các polip kết nối với nhau qua một hệ thống phức tạp gồm các kênh hô hấp tiêu hóa cho phép chúng chia sẻ đáng kể các chất dinh dưỡng và các sinh vật cộng sinh. Đối với các loài san hô mềm, các kênh này có đường kính khoảng 50-500 μm và cho phép vận chuyển cả các chất của quá trình trao đổi chất và các thành phần tế bào.[6]

    Ngoài việc dùng sinh vật phù du làm thức ăn, nhiều loài san hô, cũng như các nhóm Thích ti (Cnidaria) khác như hải quỳ (ví dụ chi Aiptasia), hình thành một quan hệ cộng sinh với nhóm tảo vàng đơn bào thuộc chi Symbiodinium. Thông thường, một polip sẽ sống cùng một loại tảo cụ thể. Thông qua quang hợp, tảo cung cấp năng lượng cho san hô và giúp san hô trong quá trình canxi hóa[7]. Tảo hưởng lợi từ một môi trường an toàn, và sử dụng điôxít cacbon và các chất chứa nitơ mà polip thải ra.

    3Cơ thể sán lá gan hình lá, dẹp, dài 2 – 5 cm, màu đỏ máu. Sán lá gan thích nghi với đời sống kí sinh nên mắt và lông bơi bị tiêu giảm.. Ngược lại, các giác bám phát triển. Với cơ dọc, cơ vòng và cơ lưng bụng phát triển, sán lá gan có thể chun, dãn, phồng, dẹp cơ thể để chui rúc, luồn lách trong môi trường ký sinh. Sán lá gan dùng 2 giác bám chắc vào nội tạng vật chủ. Hầu có cơ khỏe giúp miệng hút chất dinh dưỡng từ môi trường ký sinh đưa vào hai nhánh ruột chằng chịt để vừa tiêu hóa với tốc độ nhanh vừa dẫn chất dinh dưỡng nuôi cơ thể. Sán lá gan không có hậu môn.

    4Đây là những động vật đối xứng hai bên, thể khoang, không xương sống. Nhiều loài có chi bên để di chuyển. Hầu hết sách vở dạy trong nhà trường vẫn dùng cách phân loại truyền thống chia ngành Giun đốt ra thành Polychaeta (các loài ở biển), Oligochaete (giun đất) và Hirudinea (đỉa). Nghiên cứu phát sinh loài từ năm 1997 đã làm thay đổi tận gốc cách nhìn này, xếp Hirudinea vào Oligochaete (và có thể xếp cả Oligochaete vào Polychaeta). Thêm vào đó, Pogonophora, Echiura và Sipuncula, trước đây là những ngành riêng, nay được coi như phân nhóm của Polychaeta. Ngành Giun đốt là thành viên của Lophotrochozoa, một siêu ngành động vật miệng nguyên sinh mà cũng bao gồm thân mềm, tay cuộn, giun dẹp và giun tròn.

    Bình luận

Viết một bình luận