1.Nguyên nhân ,diễn biến cuộc khởi nghĩa bà Triệu.Nguyên nhân thất bại cuộc khởi nghĩa Bà Triệu
2.a)Sự chuyển biến về xã hội và văn hóa nước ta ở các thế kỉ I-VI
b) Lập sơ đồ về sự phân hóa xã hội nước ta ở các thế kỉ I-VI
3.Mục đích chính quyền đô hộ du nhập tôn giáo và mở trường học ở nước ta
4. Nguyên nhân diễn biến và ý nghĩa cuộc khởi nghĩa lý bí.Nước vạn xuân thành lập.Nhận xét tinh thần chiến đấu của quân khởi nghĩa
5.Sự sụp đổ của nước vạn xuân như thế nào?
1 .
*Nguyên nhân:
– Chính sách đô hộ, đồng hóa rất tàn bạo của triều địa nhà Ngô
*Diễn biến:
– Năm 248, cuộc khởi nghĩa bùng nổ.
– Từ căn cứ Phú Điền, nghĩa quân nhanh chóng đánh chiếm các thành của bọn đỏ hộ ở quận Cửu Chân rồi từ đó đánh rộng ra khắp Giao Châu. Sử nhà Ngô chép: “Năm 248, toàn thể Giao Châu đều chấn động”.
– Nhà Ngô cử Lục Dận đem 6000 quân sang đàn áp.
Nhà Ngô huy động rất nhiều lực lượng, chúng vừa đánh vừa mua chuộc, chia rẽ nghĩa quân nên cuộc khởi nghĩa bị thất bại.
2 .
a ,
Chính quyền đô hộ mở một số trường học dạy chữ Hán tại các quận. Cùng với việc dạy học, Nho giáo, Đạo giáo, Phật giáo và những luật lệ, phong tục của người Hán cũng được du nhập vào nước ta.
Nhân dân ta ở trong các làng xã vẫn sử dụng tiếng nói của tổ tiên và sinh hoạt theo nếp sống riêng với những phong tục cổ truyền như xăm mình, nhuộm răng, ăn trầu, làm bánh giầy, bánh chưng…
Trải qua nhiều thế kỉ tiếp xúc và giao dịch, nhân dân ta đã học được chữ Hán nhưng vận dụng theo cách đọc của mình.
b ,
THỜI VĂN LANG- ÂU LẠC
Vua → Quý tộc → Nông dân công xã → Nô tì
THỜI KÌ BỊ ĐÔ HỘ
Quan lại đô hộ → Hào trưởng Việt = Địa chủ Hán →Nông dân công xã và Nông dân lệ thuộc → Nô tì
3 .
Chính quyền đô hộ mở một số trường học ở nước ta nhằm mục đích:
– Đào tạo một tầng lớp người Việt phục vụ cho chính quyền đô hộ.
– Tuyên truyền luật lệ, phong tục tập quán của người Hán nhằm đồng hoá dân ta về mọi mặt, vĩnh viễn xâm chiếm nước ta.
– Tuyên truyền tôn giáo (Nho giáo, Đạo giáo) làm công cụ phục vụ cho mục đích xâm lược của chúng.
4 .
Nguyên nhân: Không chịu nổi cảnh nhân dân ta phải sống khổ sở dưới sự thống trị tàn bạo của quân xâm lược nên Lí Bí đã cùng nhân dân nổi dậy giành độc lập
* Diễn biến:
– Năm 542, Lý Bí phất cờ khởi nghĩa ở Thái Bình. Hào kiệt ở khắp nơi kéo về hưởng ứng : Tinh Thiều, Phạm Tu, Triệu Túc,..
– Trong vòng chưa đầy 3 tháng, nghĩa quân đã chiếm đc hầu hết các quận huyện.
– Tháng 4/542, nhà Lương cử quân sang đàn áp, bị nghĩa quân đánh bại, giải phóng đc Hoàng Châu.
– Đầu năm 543, nhà Lương đàn áp lần hai.
– Nghĩa quân ta chủ động đón đánh địch ở Hợp Phố và giành thắng lợi.
* Ý nghĩa:
Cuộc khởi nghĩa Lý Bí cho ta thấy đc lòng yêu nước, sự quyết giành lại độc lập, tự do của đất nước ta trong lòng mỗi người dân. Đồng thời khi Lý Bí lên ngôi hoàng đế còn cho thấy rằng nước ta đã là một nước độc lập, có dân, có vua và có hạnh phúc, ấm no.
– Quân khởi nghĩa chiến đấu với tinh thần: kiên cường, bất khuất, dũng cảm,… vì độc lập dân tộc.
5 .
sụp đổ của nước Vạn Xuân là
– Lực lượng của Lý Thiên Bảo (anh trai Lý Nam Đế), Lý Phật Tử (một người trong họ và là tướng của Lý Nam Đế) đã đem một cánh quân lui về Thanh Hóa, chờ đợi thời cơ tiếp tục kháng chiến.
– Lực lượng của Triệu Quang Phục (con của Triệu Túc) vẫn còn ở Hưng Yên. Được Lý Nam Đế trao quyền chỉ huy cuộc kháng chiến, nhân dân ta vẫn tiếp tục chiến đấu dưới sự lãnh đạo của Triệu Quang Phục.
1*nn thắng
*Nguyên nhân:
– Chính sách đô hộ, đồng hóa rất tàn bạo của triều địa nhà Ngô
*Diễn biến:
– Năm 248, cuộc khởi nghĩa bùng nổ.
– Từ căn cứ Phú Điền, nghĩa quân nhanh chóng đánh chiếm các thành của bọn đỏ hộ ở quận Cửu Chân rồi từ đó đánh rộng ra khắp Giao Châu. Sử nhà Ngô chép: “Năm 248, toàn thể Giao Châu đều chấn động”.
– Nhà Ngô cử Lục Dận đem 6000 quân sang đàn áp
*nn thua
Năm 248, cuộc khởi nghĩa bùng nổ.
– Từ căn cứ Phú Điền (Hậu Lộc, Thanh Hóa), nghĩa quân đánh phá các thành ấp của quan lại nhà Ngô ở quận Cửu Chân rồi đánh ra khắp Giao Châu.
– Được tin, nhà Ngô cử tướng Lục Dận đem 6.000 quân sang Giao Châu, chúng vừa đánh, vừa mua chuộc, tìm cách chia rẽ nghĩa quân.
– Trước thế giặc mạnh, cuộc khởi nghĩa bị đàn áp, Bà Triệu anh dũng hi sinh trên núi Tùng (Phú Điền, Hậu Lộc, Thanh Hóa).
=> Cuộc khởi nghĩa kết thúc.
2
a)
Chính quyền đô hộ mở một số trường học dạy chữ Hán tại các quận. Cùng với việc dạy học, Nho giáo, Đạo giáo, Phật giáo và những luật lệ, phong tục của người Hán cũng được du nhập vào nước ta.
Nhân dân ta ở trong các làng xã vẫn sử dụng tiếng nói của tổ tiên và sinh hoạt theo nếp sống riêng với những phong tục cổ truyền như xăm mình, nhuộm răng, ăn trầu, làm bánh giầy, bánh chưng…
Trải qua nhiều thế kỉ tiếp xúc và giao dịch, nhân dân ta đã học được chữ Hán nhưng vận dụng theo cách đọc của mình.
b)hình bên dưới
3)
– Đào tạo một tầng lớp người Việt phục vụ cho chính quyền đô hộ.
– Tuyên truyền luật lệ, phong tục tập quán của người Hán nhằm đồng hoá dân ta về mọi mặt, vĩnh viễn xâm chiếm nước ta.
– Tuyên truyền tôn giáo (Nho giáo, Đạo giáo) làm công cụ phục vụ cho mục đích xâm lược của chúng.
4)
Nguyên nhân: Không chịu nổi cảnh nhân dân ta phải sống khổ sở dưới sự thống trị tàn bạo của quân xâm lược nên Lí Bí đã cùng nhân dân nổi dậy giành độc lập
* Diễn biến:
– Năm 542, Lý Bí phất cờ khởi nghĩa ở Thái Bình. Hào kiệt ở khắp nơi kéo về hưởng ứng : Tinh Thiều, Phạm Tu, Triệu Túc,..
– Trong vòng chưa đầy 3 tháng, nghĩa quân đã chiếm đc hầu hết các quận huyện.
– Tháng 4/542, nhà Lương cử quân sang đàn áp, bị nghĩa quân đánh bại, giải phóng đc Hoàng Châu.
– Đầu năm 543, nhà Lương đàn áp lần hai.
– Nghĩa quân ta chủ động đón đánh địch ở Hợp Phố và giành thắng lợi.
* Kết quả :
– Lý Bí lên ngôi hoàn đế ( Lý Nam Đế ) vào mùa xuân năm 544.
– Đặt tên nc là Vạn Xuân, dựng kinh đô ở vùng cửa sông Tô Lịch, lập triều đình với 2 ban văn võ.
* Ý nghĩa:
Cuộc khởi nghĩa Lý Bí cho ta thấy đc lòng yêu nước, sự quyết giành lại độc lập, tự do của đất nước ta trong lòng mỗi người dân. Đồng thời khi Lý Bí lên ngôi hoàng đế còn cho thấy rằng nước ta đã là một nước độc lập, có dân, có vua và có hạnh phúc, ấm no.
*nx
– Quân khởi nghĩa chiến đấu với tinh thần: kiên cường, bất khuất, dũng cảm,… vì độc lập dân tộc.
5)
–Lực lượng của Lý Thiên Bảo (anh trai Lý Nam Đế), Lý Phật Tử (một người trong họ và là tướng của Lý Nam Đế) đã đem một cánh quân lui về Thanh Hóa, chờ đợi thời cơ tiếp tục kháng chiến.
– Lực lượng của Triệu Quang Phục (con của Triệu Túc) vẫn còn ở Hưng Yên. Được Lý Nam Đế trao quyền chỉ huy cuộc kháng chiến, nhân dân ta vẫn tiếp tục chiến đấu dưới sự lãnh đạo của Triệu Quang Phục