1 ) So sánh phong cách nghệ thuật của tác giả Nguyễn Công Trứ và Cao Bá Quát qua 2 bài thơ bài ca ngất ngưởng và bài ca ngắn đi trên bãi cát
2 ) Cảm nhận về người nghĩa sĩ cần giuộc sau khi học xong bài văn tế nghĩa sĩ cần giuộc. Liên hệ với tình yêu nước của thanh niên trong thời đại hiện nay
Mình chỉ viết đc câu 2 thôi thông cảm cho mik với ,còn câu 1 bạn tự tham khảo ở đâu đó nha!
Nguyễn Đình Chiểu – ngôi sao sáng tuy ông là một thi sĩ mù nhưng tấm lòng ông rất sáng. Ông sáng tác thơ văn ca ngợi các lãnh tụ của nghĩa quân, ca ngợi các vị nghĩa sĩ đã vì nghĩa lớn anh dũng đánh Tây. Ông tỏ lòng thương tiếc những người anh hùng vô danh đã hi sinh cho Tổ quốc. Bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là một kiệt tác của ông, là đỉnh cao tư tưởng, tình cảm, nghệ thuật trong sự nghiệp văn chương của mình. Lần đầu tiên trong nền văn học nước nhà, hình ảnh người nông dân đứng lên đánh giặc bảo vệ đất nước hiện lên sừng sững như một tượng đài nghệ thuật mang tính chất bi tráng về người nông dân yêu nước chống ngoại xâm.
Mở đầu là hình ảnh đối lập trên đã diễn tả được mâu thuẫn sâu sắc, quyết liệt của thời đại, mâu thuẫn xâm lược và chống xâm lược, khẳng định vai trò người dân trong công cuộc bảo vệ đất nước. “Lòng dân” đã sáng rực lên trong lửa đạn, trong âm vang của chiến tranh. Chỉ có nhà nghệ sĩ của nhân dân mới tạc tượng người nông dân một cách thiêng liêng giữa trời cao đất rộng, trong thời đại bão táp như vậy.
Bức “Tượng đài nghệ thuật” còn được người nghệ sĩ của nhân dân dựng lên chi tiết hơn với những nét hoành tráng, sống động. Họ là những người nông dân chịu thương, chịu khó làm ăn, chưa hề tham gia việc quân, việc kháng chiến
Cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó,
Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung
Chỉ biết ruộng trâu, ở theo làm bộ
Họ là những người nông dân của nước Việt Nam phong kiến, lạc hậu, nghèo nàn. Họ hiền lành, chăm chỉ làm ăn, chỉ quen với ruộng đồng. Họ hoàn toàn xa lạ với việc quân “chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung”, còn nói gì đến việc “tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ”, còn nói gì đến “mười tám ban võ nghệ”.
Nhưng khi giặc Pháp đánh chiếm quê hương đất nước thì những người nông dân ấy đã đứng lên đánh giặc, cứu nước với lòng yêu quê hương sâu sắc, với lòng căm thù giặc cao độ, những người nông dân lương thiện đã trở thành những nghĩa sĩ kiên cường, bất khuất tuyệt vời.
Dù họ chiến đấu trong điều kiện thiếu thốn. Có thể nói vũ khí sắc bén của họ là lòng yêu nước, với vũ khí tinh thần quý báu này, họ đã chiến đấu dũng cảm phi thường.
Với tinh thần yêu nước cao cả, họ đã biến công cụ sản xuất thành vũ khí sắc bén, lợi hại. Tượng đài nghệ thuật về người chiến sĩ nông dân Cần Giuộc đã hiện lên trước mắt chúng ta với một manh áo vải, một tay cầm con cúi còn ngùn ngụt khói và một tay vung lên lưỡi dao phay!
Đây là một “tượng đài nghệ thuật”, một quần tượng thì đúng hơn, dựng lại một cách sống động cuộc nổi dậy của những người nông dân Cần Giuộc chống Pháp trong những ngày đầu thực dân Pháp đặt chân xâm lược đất nước ta. Nhóm tượng có màu sắc, có đường nét sắc sảo và hình khối ghồ ghề khiến người đọc có thể hình dung được những hành động quyết liệt, những âm vang cuồng nộ của những người nông dân vùng lên giết giặc.
Hùng tráng vì đây là hành động của những người anh hùng vì nghĩa lớn. Hùng tráng ở lí tưởng tốt đẹp, phẩm chất cao cả của người nghĩa sĩ nông dân. Hùng tráng vì nó được dựng lên trong một thời đại sóng gió, bão táp, trong những giờ phút nghiêm trọng sống còn của đất nước. Hùng tráng mà bi thương vì họ là những anh hùng chiến bại. Nói “tượng đài nghệ thuật mang tính chất bi tráng” là đúng. Nhà thơ đã dựng một “tượng đài nghệ thuật”về những người nghĩa sĩ nông dân trong nước mắt, trong tiếng khóc của nhà thơ và của nhân dân. Nhưng tượng đài bi tráng chứ không bi lụy. Trong nước mắt, trong tiếng khóc, ta có cảm tưởng nhà thơ muốn dựng tượng đài nghệ thuật – những người nghĩa sĩ nông dân – trong lòng người. Họ sống mãi trong tình thương, trong trái tim của những người thân yêu, trong lòng nhân dân.
Ông Phạm Văn Đồng trong bài “Nguyễn Đình Chiểu – ngôi sao sáng trong nền văn nghệ dân tộc” từng đặt bài văn tế này ngang hàng với bài “Cáo Bình Ngô” của Nguyễn Trãi và cho rằng một bên là bài ca về người anh hùng chiến thắng, một bên là bài ca về người anh hùng thất thế, nhưng vẫn hiên ngang. “Tượng đài nghệ thuật” mang tính chất bi tráng về người nông dân yêu nước chống ngoại xâm của Nguyễn Đình Chiểu sống mãi trong lòng dân tộc Việt Nam anh hùng.