2. Vận dụng thế giới quan và phương pháp luận của triết học Mác – Lenin để ứng xử với tình huống xảy ra trong cuộc sống hiện nay

By Gabriella

2. Vận dụng thế giới quan và phương pháp luận của triết học Mác – Lenin để ứng xử với tình huống xảy ra trong cuộc sống hiện nay

0 bình luận về “2. Vận dụng thế giới quan và phương pháp luận của triết học Mác – Lenin để ứng xử với tình huống xảy ra trong cuộc sống hiện nay”

  1. Kể từ tháng 2 năm 1848 với sự ra đời của Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản – đánh dấu sự ra đời của chủ nghĩa Mác đến nay đã hơn 170 năm. Hơn 170 năm qua với bao sự đổi thay của thực tiễn phong trào công nhân; chủ nghĩa xã hội từ ước mơ, lý tưởng đã trở thành hiện thực với hơn 100 năm tồn tại cùng những thăng trầm lịch sử khác nhau; khoa học, công nghệ có những bước phát triển vượt bậc, khó tưởng tượng,v.v.. Nhưng chủ nghĩa Mác vẫn tồn tại, vẫn phát triển, vẫn là thế giới quan, phương pháp luận khoa học của các đảng cộng sản và hàng triệu triệu công nhân cùng nhân dân lao động toàn thế giới. Có được như vậy là vì sự vận dụng, bổ sung, phát triển là bản chất cách mạng vốn có, yêu cầu nội tại của chủ nghĩa Mác; là đáp ứng yêu cầu thực tiễn của thời đại cũng như sự phát triển của khoa học, công nghệ.

    1. Vận dụng, bổ sung, phát triển sáng tạo là bản chất cách mạng vốn có, yêu cầu nội tại của chủ nghĩa Mác

    Chủ nghĩa Mác về bản chất là một học thuyết phát triển, là hệ thống mở với bản chất vốn có là luôn được vận dụng, bổ sung, phát triển cho phù hợp thực tiễn.Trong bức thư gửi nhà văn người Mỹ bà Phlo-ren-xơ Ken-li-vi-sne-vét-xcai-a, ngày 27 tháng giêng năm 1887, Ph.Ăngghen đã nói rõ: “Lý luận của chúng tôi là lý luận của sự phát triển, chứ không phải là một giáo điều mà người ta phải học thuộc lòng và lắp lại một cách máy móc”[1]. V.I.Lênin sau này, vào năm 1910, đã nhắc lại lời khẳng định Ph.Ăngghen “Học thuyết của chúng tôi – Ăngghen nói về mình và người bạn nổi tiếng của mình – không phải là một giáo điều mà là một kim chỉ nam cho hành động” và cho rằng quên điều này “thì chúng ta sẽ làm cho chủ nghĩa Mác trở thành phiến diện, quái dị, chết cứng, sẽ vứt bỏ linh hồn sống của nó, sẽ phá hủy cơ sở lý luận cơ bản của nó – tức là phép biện chứng”[2]. V.I.Lênin cũng nhấn mạnh “Chính vì chủ nghĩa Mác không phải là một giáo điều chết cứng, một học thuyết nào đó đã hoàn thành hẳn, có sẵn đâu vào đấy, bất di bất dịch, mà là một kim chỉ nam sinh động cho hành động, chính vì thế nó không thể không phản ánh sự biến đổi mạnh mẽ của điều kiện sinh hoạt xã hội”[3]. Chính vì vậy, nó luôn phải được vận dụng, bổ sung, phát triển. Chính lịch sử hình thành, phát triển của chủ nghĩa Mác cũng đã chứng minh điều đó.  C. Mác và Ph. Ăngghen không phải ngay từ đầu đã có lập trường cộng sản chủ nghĩa và thế giới quan duy vật biện chứng. Đó là cả một quá trình chuyển biến, tự bổ sung, phát triển lý luận của các ông. Chẳng hạn, khái niệm “quan hệ sản xuất” ở “Hệ tư tưởng Đức” (cuối 1845 đầu 1846), chỉ mới được C.Mác và Ph.Ăngghen sử dụng như là “quan hệ giao tiếp”. Đến “Sự khốn cùng của triết học” (1847), được C.Mác sử dụng như là “quan hệ xã hội”, đến “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” mới là “quan hệ sản xuất”. Hay khái niệm “chuyên chính vô sản”, ở “Sự khốn cùng của triết học” mới được C.Mác trình bày dưới dạng mầm mống, thể hiện ở luận điểm “giai cấp công nhân bằng cách tổ chức liên hiệp lại để loại bỏ giai cấp tư sản”. Đến “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, chuyên chính vô sản được thể hiện “nhà nước là công cụ bạo lực để thiết lập chính quyền”. Đến ngày 5 tháng 3 năm 1852 trong “Thư gửi Vâyđơmayơ” C.Mác lần đầu tiên dùng thuật ngữ “chuyên chính vô sản”[4].

    V.I.Lênin đã vận dụng, bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác trong điều kiện khoa học về thế giới vi mô phát triển như vũ bão; sự chuyển biến của chủ nghĩa tư bản sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, nhưng bản chất ăn bám, bóc lột của nó không đổi; sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực ở nước Nga Xô viết đặt ra nhiều vấn đề mới chưa có tiền lệ trong lịch sử. Trong bối cảnh đó, V.I.Lênin đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác vào xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga và đã bổ sung, phát triển nhiều luận điểm lý luận của chủ nghĩa Mác về triết học; kinh tế chính trị và chủ nghĩa cộng sản khoa học[5]. Chính sách kinh tế mới (NEP) là một trong những minh chứng cho sự vận dụng, bổ sung, phát triển hết sức sáng tạo chủ nghĩa Mác vào điều kiện nước Nga bởi V.I.Lênin. Trong “Cương lĩnh của chúng ta“, V.I.Lênin đã khẳng định: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống. Chúng tôi nghĩ rằng những người xã hội chủ nghĩa ở Nga đặc biệt cần phải tự mình phát triển hơn nữa lý luận của Mác, vì lý luận này chỉ đề ra những nguyên lý chỉ đạo chung, còn việc áp dụng nguyên lý ấy thì xét riêng từng nơi, ở Anh không giống ở Pháp, ở Pháp không giống ở Đức, ở Đức không giống ở Nga”[6].

     C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin luôn đòi hỏi những người cộng sản phải biết vận dụng, bổ sung, phát triển sáng tạo những nguyên lý cơ bản sao cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh lịch sử, truyền thống văn hóa, v.v… của mỗi nước. Như vậy, yêu cầu vận dụng, bổ sung, phát triển là bản chất đặc trưng vốn có, là yêu cầu nội tại của chủ nghĩa Mác.

     2. Vận dụng, bổ sung, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác là đáp ứng yêu cầu thực tiễn của thời đại cũng như sự phát triển của khoa học, công nghệ

    Từ nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa Mác, chúng ta thấy, thực tiễn cuộc sống luôn vận động, biến đổi, phát triển, vì thế, nhận thức của con người nói chung, lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin nói riêng cũng luôn phải được vận dụng, bổ sung, phát triển cho phù hợp thực tiễn. Thời đại ngày nay có nhiều biến động sâu sắc, thế giới có nhiều diễn biến phức tạp; xu hướng đa cực, đa trung tâm diễn ra nhanh hơn; các nước lớn điều chỉnh chiến lược, vừa hợp tác thỏa hiệp, vừa cạnh tranh, đấu tranh kiềm chế lẫn nhau. Cuộc cách mạng khoa học – công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ. Chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa cường quyền áp đặt, chủ nghĩa dân túy đang nổi lên trong quan hệ quốc tế. Những vấn đề toàn cầu như an ninh lương thực, an ninh năng lượng, an ninh nguồn nước sạch, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh có nhiều diễn biến phức tạp. Cộng đồng quốc tế ngày càng phải đối phó với các thách thức an ninh mạng. Tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biển đảo trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương và Đông Nam Á tiếp tục diễn ra phức tạp[7],v.v.. Tất cả những nhân tố này tác động mạnh mẽ đến cục diện thế giới và phong trào công nhân, đồng thời đòi hỏi chủ nghĩa Mác – Lênin phải được vận dụng, bổ sung, phát triển để phù hợp với tình hình biến đổi của thực tiễn. Ngay trong Lời tựa viết cho bản tiếng Đức Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, xuất bản năm 1872, C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định có một số đoạn nhỏ, chi tiết nhỏ của tác phẩm này cần được xem xét lại, viết khác đi, vì thực tiễn đã đổi thay[8]. Những biến đổi mau lẹ của thực tiễn đầu thế kỷ XXI này đang đặt ra nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn, mà để giải quyết chúng một cách đúng đắn, chúng ta đồng thời phải dựa vào phương pháp luận, quan điểm, lập trường, thái độ của chủ nghĩa Mác – Lênin, phải vừa tìm ở chính thực tiễn ngày hôm nay. Điều đó nói lên rằng, chính thực tiễn ngày hôm nay đang đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục vận dụng, bổ sung, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin. Chính C.Mác và Ph.Ăngghen đã lưu ý rằng “… chủ nghĩa cộng sản không phải là một trạng thái cần phải sáng tạo ra, không phải là lý tưởngmà hiện thực phải khuôn theo. Chúng ta gọi chủ nghĩa cộng sản là một phong trào hiện thực, nó xóa bỏ trạng thái hiện nay. Những điều kiện của phong trào ấy là do những tiền đề hiện đang tồn tại đẻ ra”[9].

    Sau sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu, thì “dàn đồng ca” chống chủ nghĩa Mác – Lênin cũng đông hơn, đa dạng hơn gấp nhiều lần[10]. Tình hình này đòi hỏi những người cộng sản chân chính phải biết vận dụng, bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin một cách khoa học, phù hợp thực tiễn. Chỉ trên cơ sở đó, chúng ta mới bảo vệ được chủ nghĩa Mác – Lênin. Thời đại ngày nay đang có nhiều biến động sâu sắc, song như Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận định “Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”[11]Các quốc gia, dân tộc “… để đạt mục đích chiến thắng giai cấp tư sản thì đều giống nhau về bản chất, song mỗi nước lại hoàn thành quá trình phát triển ấy theo cách thức riêng của mình[12]. Điều kiện đặc thù của mỗi quốc gia, dân tộc đòi hỏi phải áp dụng những nguyên tắc của chủ nghĩa cộng sản “sao cho những nguyên tắc ấy được cải biến đúng đắn trong những vấn đề chi tiết, được làm cho phù hợp, cho thích hợp với đặc điểm dân tộc và đặc điểm nhà nước – dân tộc”[13]. Điều này đòi hỏi những người cộng sản ở các quốc gia, dân tộc khác nhau phải biết vận dụng, bổ sung, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ cũng đòi hỏi chủ nghĩa Mác – Lênin phải được vận dụng, bổ sung, phát triển sáng tạo. Đúng như Ph.Ăngghen đã khẳng định: “Mỗi lần có một phát minh mang ý nghĩa thời đại ngay cả trong lĩnh vực khoa học lịch sử – tự nhiên thì chủ nghĩa duy vật lại không tránh khỏi thay đổi hình thức của nó”[14].  Điều này hoàn toàn đúng với chủ nghĩa Mác-Lênin.

    Khi khẳng định lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin là lý luận phát triển không có nghĩa là những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin không ổn định. Điều cần lưu ý ở đây là “…tuỳ theo những bước chuyển của tình hình xã hội và chính trị cụ thể, cho nên những phương diện khác nhau của chủ nghĩa Mác, tức là của một học thuyết sinh động, không thể không nổi bật lên hàng đầu”[15]. Có nghĩa là, những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin cho tới nay vẫn hoàn toàn đúng đắn, khoa học, cách mạng, nhưng có những luận điểm cụ thể nào đó do thực tiễn chính trị – xã hội, cũng như do sự phát triển của kinh tế, của khoa học, v.v… đã đổi thay mà cần phải được bổ sung, phát triển, thậm chí loại bỏ. Chẳng hạn, trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen mới nêu ra khẩu hiệu “Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại!”, V.I.Lênin trong điều kiện thực tiễn mới đã bổ sung thành “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại!”. Hay như, C.Mác và Ph. Ăngghen sống trong thời đại mà chủ nghĩa tư bản phát triển tương đối đồng đều, nên các ông đã chỉ rõ, cách mạng vô sản chỉ có thể nổ ra đồng thời ở một loạt nước tư bản chủ nghĩa phát triển. Nhưng bước sang thế kỉ XX, chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. V.I.Lênin  bổ sung: “Sự phát triển không đều về kinh tế và chính trị là quy luật tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản. Do đó chúng ta thấy rằng, chủ nghĩa xã hội có thể thắng lợi trước hết trong một số ít nước tư bản chủ nghĩa, hoặc thậm chí chỉ trong một nước tư bản chủ nghĩa tách riêng ra mà nói”[16]. Thực  tiễn đã chứng minh tính đúng đắn cho luận điểm này của V.I.Lênin. Tất nhiên luận điểm này của V.I.Lênin không mâu thuẫn với luận điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen. Bởi lẽ, thực tiễn đổi thay thì những kết luận được rút ra từ tổng kết thực tiễn cũng phải đổi thay theo cho phù hợp thực tiễn mới. Tất cả những điều này cho thấy chủ nghĩa Mác-Lênin là một học thuyết luôn được vận dụng, bổ sung, phát triển cho phù hợp thực tiễn.

    Sự vận dụng, bổ sung, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin  bởi Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng như các đảng cộng sản và phong trào công nhân quốc tế càng cho thấy vận dụng, bổ sung, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác không chỉ là bản chất nội tại của chủ nghĩa Mác mà còn là  đáp ứng yêu cầu thực tiễn.

     Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng, bổ sung, phát triển hết sức sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin như gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội; phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội Việt Nam; đưa ra  mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam với tám đặc trưng. Trong đó, đặc trưng “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” vừa là đặc trưng đầu tiên vừa là mục đích của chủ nghĩa xã hội Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam cũng xác định tám phương hướng lớn để xây dựng chủ nghĩa xã hội cùng chín mối quan hệ lớn cần giải quyết trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Về kinh tế, Đảng Cộng sản Việt Nam coi kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa như công cụ, phương tiện xây dựng chủ nghĩa xã hội, là mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam[17]. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật; thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ các nguồn lực phát triển; là động lực chủ yếu giải phóng sức sản xuất; v.v.. Đảng Cộng sản Việt Nam coi xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là hình thức tối ưu thực hiện quyền lực của nhân dân. Xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam coi xây dựng Đảng về đạo đức là một bộ phận cấu thành quan trọng của công tác xây dựng Đảng trong điều kiện mới. Đảng Cộng sản Việt Nam cũng coi phát triển “Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, một động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội, đồng thời là một mục tiêu của chủ nghĩa xã hội”[18]. Đây là kết quả của sự tổng kết thực tiễn, tiếp thu, vận dụng, bổ sung, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin cũng như những thành tựu của tư duy nhân loại về văn hóa; v.v.. Tất cả những điều này cho thấy Đảng Cộng sản Việt Nam đã thành công trong vận dụng, bổ sung, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin  vào điều kiện thực tiễn Việt Nam.

    3. Một số quan điểm cần nắm vững trong việc vận dụng, bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin

    Một là, vận dụng, bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin không có nghĩa là phủ định nó, mà là tiếp tục làm sáng tỏ và khẳng định bản chất cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin trong điều kiện mới.

    Vận dụng, bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin phải dựa trên cơ sở kiên trì chủ nghĩa Mác – Lênin, trên cơ sở bảo vệ, kế thừa, phát huy bản chất cách mạng, khoa học vốn có của chủ nghĩa Mác – Lênin, không hoang mang, dao động, mất phương hướng. Cần chống việc nhân danh “vận dụng, bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin” để phủ định bản chất khoa học cách mạng vốn có của nó, rơi vào chủ nghĩa xét lại; hoặc là nhân danh “bảo vệ” chủ nghĩa Mác-Lênin, không nhìn thấy những đổi thay của thực tiễn, rơi vào giáo điều, kinh viện, bảo thủ. Muốn vận dụng, bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin một cách đúng đắn, cần phải phân biệt rõ những luận điểm thực sự của các ông với những gì mà người khác đã “thêm” vào cho các ông.

    Hai là, vận dụng, bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, có nghĩa là trên lập trường của chủ nghĩa Mác – Lênin đề cập tới một số vấn đề  mà Mác – Ăngghen – Lênin đã giải quyết đúng đắn trong thời đại của các ông, nhưng do thực tiễn thời đại đổi thay, nên cần phải có những bổ sung mới.

    C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin không phải là những ông thánh, họ cũng là những con người như bao người khác. Do vậy, các ông cũng có những lúc nhầm. Trong Lời nói đầu viết cho tác phẩm “Đấu tranh giai cấp ở Pháp từ 1848 đến 1850” của C.Mác”,Ph.Ăngghen đã thừa nhận các ông đã sai lầm khi cho cách mạng xã hội chủ nghĩa sắp nổ ra ở Châu Âu khi ấy[19].  Sau này, V.I.Lênin đã giải thích thêm trong Lời tựa cho bản dịch ra tiếng Nga quyển “Những bức thư của I. Ph. Bếc-cơ, I. Đít-xơ-ghen, Ph. Ăng-ghen, C. Mác v.v… gửi Ph. A. Doóc-ghê và những người khác” như sau: “Đúng, Mác và Ăng-ghen đã lầm nhiều và thường lầm trong khi phán đoán cách mạng sẽ nổ ra, trong khi hai ông hy vọng cách mạng sẽ thắng lợi (chẳng hạn, cách mạng năm 1848 ở Đức)”[20].

    Bản thân V.I.Lênin sau này cũng thừa nhận Cách mạng tháng Mười đã giành được thắng lợi “sau khi chúng ta đã trải qua rất nhiều thất bại và sai lầm to lớn”[21]; và trong xây dựng, phát triển kinh tế “ chúng ta đã gặp nhiều thất bại nhất và mắc nhiều sai lầm nhất”[22]. Tất nhiên, V.I.Lênin cũng nhấn mạnh rằng “chúng ta không sợ phải thừa nhận những sai lầm của chúng ta, chúng ta sẽ nhìn sai lầm đó một cách tỉnh táo để tìm cách sửa chữa”[23].

    Vận dụng, bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin đòi hỏi phải khẳng định những luận điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, không những đúng với trước kia và bây giờ, mà còn tiếp tục có giá trị định hướng như: quan niệm duy vật về lịch sử; học thuyết về giá trị thặng dư, phép biện chứng duy vật, học thuyết về vai trò sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân, học thuyết về chủ nghãi xã hội,v.v…

    Ba là, vận dụng, bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin có nghĩa là trên lập trường của chủ nghĩa Mác – Lênin nêu lên quan niệm về một số vấn đề  do những nguyên nhân khác nhau mà các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác-Lênin chưa có điều kiện và thời cơ giải quyết.

    Trong thư gửi cho I-ô-dép Blốc ngày 21 (22) tháng 9-1890, Ph.Ăngghen đã chỉ rõ Mác và Ông phần nào có lỗi trong việc làm giới trẻ đôi khi coi trọng mặt kinh tế nhiều hơn mức cần thiết[24].  Do thời gian, điều kiện không cho phép nên C.Mác và Ph.Ăngghen chưa đề cập được hết các vấn đề mà thực tiễn ngày nay đòi hỏi như: vấn đề Phương thức sản xuất châu Á, vấn đề quá độ bỏ qua giai đoạn phát triển chế độ tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội ở những nước nghèo, lạc hậu, v.v…

    Bốn là, vận dụng, bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin có nghĩa là trên lập trường của chủ nghĩa Mác-Lênin nêu lên quan niệm về một số vấn đề  cấp bách do cuộc sống ngày nay đặt ra mà ở thời đại của Mác, Ăngghen, Lênin chưa đặt ra hoặc đã đặt ra nhưng chưa thực sự cấp bách.

    Chúng ta đều rõ, C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin không phải là những nhà tiên tri và các ông không thể thấy trước được hết mọi vấn đề. Chẳng hạn, các ông chưa thấy được, hệ thống tư bản có khả năng tự điều chỉnh với việc sử dụng sự can thiệp của nhà nước; các ông cũng không thể thấy trước được việc mở mang hết sức to lớn của lĩnh vực dịch vụ, từ đó cơ cấu xã hội – giai cấp cũng đổi thay; hay sự phát triển như vũ bão của không học, công nghệ nhất là công nghệ thông tin đã tạo ra cho chủ nghĩa tư bản những lợi thế, cơ hội ngăn ngừa, hạn chế khủng hoảng, hay vấn đề đảng viên làm kinh tế tư nhân; vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; vấn đề phát triển văn hóa với tư cách nền tảng tinh thần của xã hội,v.v..

        Tóm lại, vận dụng, bổ sung và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin trong thời đại ngày nay là bản chất cách mạng vốn có, là thuộc tính nội tại của chủ nghĩa Mác-Lênin; là đáp ứng yêu cầu thực tiễn mới cũng như sự phát triển của khoa học, công nghệ. Tuy nhiên, vận dụng, bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin phải có nguyên tắc, không tùy tiện nhân danh “vận dụng, bổ sung, phát triển” để xuyên tạc, chống chủ nghĩa Mác-Lênin hay nhân danh “bảo vệ chủ nghĩa Mác-Lênin” rơi vào bảo thủ, trì trệ, không đổi mới, phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin./.

     

     

     

     

    Trả lời
  2. 22/07/2014

    Khi bàn về sự cần thiết của việc giảng dạy triết học cho sinh viên, một số ý kiến cho rằng, đào tạo đại học là đào tạo nghề, đào tạo các chuyên gia làm việc trong các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế quốc dân nên chỉ cần giảng dạy các môn học chuyên ngành là đủ. Luận điểm này thoạt nghe dường như có lý, nhưng thực ra là sai lầm. Thực tế cho thấy, Nhà nước không đơn giản chỉ cần đến những chuyên gia, mà hơn hết là cần những công dân có trách nhiệm với tương lai của bản thân và tiền đồ của đất nước. Để giáo dục ý thức công dân thì cần có triết học và các môn khoa học xã hội, nhân văn khác. Lịch sử Tổ quốc hướng mỗi người ý thức về cội nguồn của mình trong một cộng đồng dân tộc xác định, vị trí của thế hệ mình trong dãy những thế hệ thay thế lẫn nhau, hiểu được tính đặc thù và độc đáo của thời đại.

    Sinh viên ở các thời đại khác nhau và ở các nước khác nhau đều thường đi tiên phong trong các phong trào và các tiến trình chính trị. Triết học đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành thế giới quan, phương pháp luận, nhân sinh quan, hệ thống giá trị văn hóa nhân văn cho sinh viên, nó như “la bàn” giúp họ định hướng tính tích cực xã hội và chính trị của mình vào mục đích xây dựng, sáng tạo. Triết học đem lại cho sinh viên tri thức về các mối quan hệ xã hội, về bản chất, chức năng của nhà nước và của pháp luật, về mục đích tồn tại của con người, về cái thiện và cái ác, về mối quan hệ giữa cá nhân với nhà nước và xã hội, về tự do và trách nhiệm. Vì vậy, triết học có vai trò quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách sinh viên.

    1. Sinh viên Việt Nam hiện nay là một bộ phận thanh niên đã được tuyển chọn qua các kỳ thi quốc gia và được đào tạo trong các trường đại học, cao đẳng. Họ là lớp người đang trưởng thành, đang chuẩn bị hành trang nghề nghiệp cần thiết và chín muồi về nhân cách. Là bộ phận dân cư có tuổi đời trẻ chủ yếu khoảng từ 18 – 23, sinh viên được xã hội đào tạo theo hệ thống cơ bản để trở thành những nhà quản lý xã hội, lực lượng sản xuất hiện đại và quan trọng trong tương lai. Với tư cách bộ phận xã hội đặc thù, sinh viên có những đặc điểm riêng. Một là, số lượng sinh viên thay đổi từng năm, tùy thuộc vào quá trình tuyển sinh và theo xu hướng tăng dần. Hai là, sinh viên là đội dự bị trí thức tương lai. Vì vậy, họ mang trong mình những đặc điểm của tầng lớp trí thức, như có khả năng lĩnh hội và sáng tạo tri thức khoa học, kỹ thuật và công nghệ, khá nhạy cảm với những vấn đề chính trị – xã hội… Họ là nhóm xã hội dễ tiếp thu tư tưởng mới (kể cả tích cực lẫn tiêu cực). Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “óc những người tuổi trẻ trong sạch như một tấm lụa trắng. Nhuộm xanh thì nó sẽ xanh. Nhuộm đỏ thì nó sẽ đỏ”(1). Vì vậy, các lực lượng xã hội khác nhau, các đảng phái khác nhau đều tìm cách lôi kéo sinh viên, mong muốn sự ủng hộ từ phía họ cho các hoạt động của mình. Ba là, sinh viên chưa có một “vị trí thực” trong cơ cấu nghề nghiệp cũng như trong xã hội. Bởi lẽ, họ chưa có một nghề nghiệp ổn định, chưa có một vị trí riêng trong quá trình sản xuất của nền sản xuất xã hội. Hoạt động chủ yếu nhất của họ là hoạt động học tập và bước đầu tham gia nghiên cứu khoa học, nắm vững một lĩnh vực tri thức

     nghề nghiệp nhất định để sau này trở thành chuyên gia của nghề nghiệp đó.

    Tóm lại, sinh viên có vị trí “song hành”, vị trí “kép” trong xã hội. Một mặt, họ là những thanh niên sinh viên đang dần hoàn thiện nhân cách, là lực lượng sản xuất hiện đại, người chủ của đất nước trong tương lai. Mặt khác, họ là nguồn lực cơ bản để bổ sung vào đội ngũ trí thức trong tương lai. Họ chính là nguồn nhân lực chất lượng cao đầy tiềm năng sáng tạo và ứng dụng khoa học – công nghệ để góp phần thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới đất nước, hội nhập quốc tế hiện nay.([1])

    Mỗi cá nhân ở những địa vị xã hội khác nhau đều có sự thể hiện nhân cách đặc trưng phù hợp với vị thế xã hội của mình. Ví dụ, nhân cách người cán bộ lãnh đạo, nhân cách người giáo viên… Sinh viên – một bộ phận xã hội đặc thù cũng có phương diện thể hiện tính đặc thù trong nhân cách của mình. Nhân cách sinh viên là trường hợp cụ thể của nhân cách, là hình thức biểu hiện tính Người ở một tầng lớp xã hội đặc biệt. Có thể hiểu nhân cách sinh viên là tổng thể những phẩm chất đạo đức và tài năng, thể chất và tinh thần được hình thành một cách lịch sử – cụ thể, qui định giá trị và những hành vi xã hội của sinh viên, được thể hiện, thực hiện trong hoạt động học tập, hoạt động giao tiếp, ứng xử, hoạt động xã hội của cá nhân mỗi sinh viên.

    Nhân cách sinh viên Việt Nam trong điều kiện hiện nay, ngoài những đặc điểm chung của nhân cách, thì còn có những biểu hiện riêng về phẩm chất đạo đức và năng lực, như sinh viên hiện nay năng động, sáng tạo và thực tế hơn. So với các thế hệ sinh viên trước đổi mới, sinh viên hiện nay có tính thực tế cao. Chọn ngành học là biểu hiện đầu tiên của tính thực tế. Họ tập trung nhất vào những ngành học mà ra trường có thể xin việc được ngay vì xã hội đang cần, những nghề có thu nhập cao, chỉ số ít sinh viên chọn nghề theo mơ ước.

    Sinh viên hiện nay rất năng động. Họ năng động trong phương thức tiếp nhận tri thức để hoàn thành tốt nhiệm vụ chính là học tập; năng động trong quá trình tham gia vào hoạt động xã hội: Làm thêm dưới nhiều hình thức thời gian (nửa ngày, vài ngày trong một tuần, buổi tối), phong phú về nghề (làm gia sư, bán hàng, giúp việc nhà…). Một số sinh viên có tham vọng trở thành những nhà kinh doanh giỏi đã mở cửa hàng kinh doanh thể hiện tính chủ động, sáng tạo cao trong công việc của mình.

    Tính sáng tạo của sinh viên được thể hiện ở việc rất nhiều sinh viên tham gia nghiên cứu khoa học và đạt giải cao trong các kỳ thi quốc tế, quốc gia, giải thưởng Tài năng trẻ Việt Nam hàng năm do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức…

    Sinh viên hiện nay đề cao vai trò cá nhân: Kinh tế thị trường có tác động mạnh mẽ đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay. Sinh viên luôn có ý thức cao việc khẳng định nhân cách bằng cách trau dồi kiến thức chuyên môn, khẳng định vị trí của mình trước xã hội. Đồng thời, họ thể hiện rõ vai trò cá nhân, lợi ích cá nhân trong hành động. Lợi ích chung và sự quan tâm, chia sẻ với những người xung quanh dường như bị lấn át bởi việc thực hiện những lợi ích riêng, nhu cầu cá nhân ở một bộ phận sinh viên.

    Sinh viên xác định rõ phương pháp thực hiện lý tưởng của mình: Lý tưởng cao cả của sinh viên Việt Nam hiện nay là giữ vững nền độc lập dân tộc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Trong đó, đạo đức cộng sản là yếu tố cấu thành quan trọng nên lý tưởng của sinh viên. Khẳng định điều này vì đạo đức là thành phần đặc biệt trong nhân cách của sinh viên, cái để phân biệt sự khác nhau giữa nhân cách này với nhân cách khác xuất phát từ điểm gốc là “đức” trong mỗi con người.

    Trong thời đại hiện nay, mỗi sinh viên hiểu rằng, sống có lý tưởng trước hết phải trân trọng và bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc, bởi đó là thành quả được đổi bằng biết bao mồ hôi và xương máu của các thế hệ cha ông trong dựng nước và giữ nước. Thứ hai, sinh viên phải dốc lòng học tập, rèn luyện để góp sức mình thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới, đưa đất nước tiến những bước vững chắc trong quá trình hội nhập, phát triển trong bối cảnh toàn cầu hóa. Họ hiểu muốn củng cố và bảo vệ nền độc lập tự do của dân tộc chỉ có một con đường duy nhất đúng là đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Lý tưởng của sinh viên được biểu hiện rõ nhất ở khát vọng học tập, nghiên cứu, ở sự nỗ lực, chuyên cần, sáng tạo trong học tập nhằm nắm vững những tri thức vươn lên chiếm lĩnh những đỉnh cao của khoa học – công nghệ, nhanh chóng hội nhập với xu thế phát triển của nền văn minh nhân loại. Bởi vì, trong xu thế phát triển hiện nay, dân tộc nào vươn lên đến đỉnh cao trí tuệ thì dân tộc đó sẽ chiến thắng. Đúng như khẳng định của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”(2).

    2. Khi nghiên cứu tính quy luật của sự hình thành nhân cách, nhân cách sinh viên, chúng ta thấy rằng nhân cách chỉ được hình thành và phát triển cùng với quá trình giáo dục và tự giáo dục, quá trình giao tiếp, quá trình hoạt động thực tiễn bộc lộ những “phẩm chất người” của mỗi con người..; trong đó, giáo dục giữ vai trò chủ đạo. Giáo dục triết học Mác – Lênin cho sinh viên là một yếu tố hợp thành quan trọng của nền giáo dục đại học nước ta hướng đến việc xây dựng những thế hệ sinh viên có nhân cách trong sáng, có lập trường tư tưởng chính trị vững vàng, đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của quá trình hội nhập và phát triển đất nước. Cơ sở để khẳng định điều đó là:

    Thứ nhất, giáo dục triết học Mác – Lênin trong trường đại học nhằm góp phần hình thành thế giới quan khoa học trong nhân cách sinh viên Việt Nam

    Giáo dục triết học Mác – Lênin trước hết là giáo dục những nguyên lý, phạm trù cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin nhằm xây dựng lập trường thế giới quan cho sinh viên. Đó chính là thế giới quan duy vật biện chứng – nền tảng để sinh viên nhận thức và tiếp thu những nguyên lý, quy luật khác. Thế giới quan là toàn bộ hệ thống tri thức, những quan niệm của con người về thế giới và về vị trí của chính con người trong thế giới đó. Là một hệ thống tri thức, quan niệm về thế giới nhưng thế giới quan được hiểu là kết quả của quá trình nhận thức đặc thù của con người, chứ không phải là phép cộng giản đơn tổng số các tri thức khoa học cụ thể.([2])

    Việc giáo dục triết học Mác – Lênin trong các trường đại học có vị trí đặc biệt quan trọng đối với quá trình hình thành và phát triển thế giới quan khoa học – thế giới quan duy vật biện chứng của sinh viên. Bởi lẽ, triết học Mác – Lênin nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy, nó cung cấp cho con người một cách nhìn khoa học đối với hiện thực khách quan và khẳng định vai trò, vị trí của con người trong hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới. Từ đó, giúp họ có thái độ đúng đắn, khoa học đối với hiện thực, có phương hướng chính trị vững vàng, có khả năng nhận biết, phân tích và giải quyết các vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn xã hội trên tinh thần thế giới quan Mác – Lênin.

    Với tư cách một hệ thống lý luận, một học thuyết, triết học Mác – Lênin đã lý giải một cách khoa học nhất về thế giới và vị trí của con người trong thế giới đó. Như vậy, triết học Mác – Lênin đóng vai trò là cơ sở lý luận, là “hạt nhân” của thế giới quan. Gọi là “hạt nhân” của thế giới quan, bởi vì ngoài triết học Mác – Lênin, thế giới quan Mác – Lênin còn có các quan điểm về chính trị, kinh tế, đạo đức, luật pháp, thẩm mỹ… Song, tất cả các quan điểm trên đều được xây dựng trên nền tảng khoa học của triết học Mác – Lênin. Quan điểm và niềm tin khoa học của triết học Mác – Lênin đã tạo dựng cơ sở nền tảng cho toàn bộ hệ thống thế giới quan Mác – Lênin. Triết học đã lý giải về mặt lý luận toàn bộ các dữ kiện của hiện thực khách quan và hoạt động thực tiễn của con người một cách lịch sử – cụ thể và khoa học nhất. Vấn đề cơ bản của triết học, như Ph.Ăngghen đã nói, là vấn đề về mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại. Việc con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không cũng là những vấn đề của thế giới quan. Thế giới quan của chủ nghĩa Mác – Lênin, mà cốt lõi là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, là hệ thống lý luận khoa học và cách mạng; nó đã, đang và sẽ là một công cụ tư duy quan trọng nhất định hướng cho toàn Đảng, toàn dân ta nói chung và sinh viên nói riêng trong hoạt động nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn. Vì vậy, xây dựng và phát triển thế giới quan Mác – Lênin chính là nhân tố đặc biệt quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách nói chung và nhân cách sinh viên Việt Nam nói riêng.

    Tuy nhiên, thế giới quan khoa học không hình thành một cách tự động, tức cứ trang bị tri thức là có thế giới quan; trái lại, đó còn phải là quá trình chuyển tri thức thành niềm tin khoa học trong mỗi sinh viên. Cơ sở để hình thành và phát triển thế giới quan là những nhận thức về tự nhiên và xã hội, là kết quả của quá trình giáo dục và những kinh nghiệm được tích lũy trong thực tiễn của sinh viên. Đó chính là quá trình hình thành và phát triển các quan điểm, quan niệm, niềm tin về vai trò và khả năng của con người trong quá trình nhận thức và cải tạo thế giới. Nói cách khác, tri thức, niềm tin, lý tưởng và tình cảm là những yếu tố cơ bản nhất cấu thành nên thế giới quan. Trong đó, tri thức tự nó chưa thể trở thành thế giới quan. Nó chỉ gia nhập thế giới quan khi trở thành niềm tin trong mỗi người. Nhờ có niềm tin, tri thức mới trở thành cơ sở cho hành động của mỗi người. Khi biến thành niềm tin, tri thức đóng vai trò động cơ, động lực tinh thần cho hoạt động của con người, giúp con người xác định lý tưởng sống. Đạt đến “độ” này, mỗi sinh viên thể hiện trình độ sâu sắc trong nhận thức và tri thức, hình thành thế giới quan và khi đó, thế giới quan trở thành nhân tố định hướng quan trọng trong mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn.

    Thứ hai, giáo dục triết học Mác – Lênin còn góp phần xây dựng nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa cho sinh viên, xây dựng trong họ những quan niệm đúng đắn về cuộc đời, về ý nghĩa và mục đích của cuộc sống. Cụ thể là, triết học Mác – Lênin giúp sinh viên hiểu đư­­ợc mục đích cao nhất của con người là xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; trong đó, mọi ng­ười đều có một cuộc sống đầy đủ về vật chất và tinh thần. Đó là một xã hội mà “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi ng­ười”.

    Giáo dục triết học Mác – Lênin sẽ góp phần từng bước xây dựng và bồi dưỡng nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa cho sinh viên thông qua việc trang bị cho họ những kiến thức cơ bản về lý luận cách mạng xã hội, về bản chất và chức năng của nhà nước, về con người và các quan hệ xã hội của con người, về giai cấp, dân tộc, về xu hướng phát triển tất yếu của xã hội… Đồng thời, từng bước xây dựng cho sinh viên cách nhìn, lối sống cũng như cách vận dụng những định hướng giá trị xã hội đã được nhận thức vào thực tiễn cuộc sống. Chẳng hạn, từ tri thức về những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và t­ư duy, cung cấp cho sinh viên một cách nhìn khoa học đối với hiện thực khách quan và khẳng định vai trò, vị trí của con ng­ười trong việc nhận thức và cải tạo thế giới. Hoặc là, khi phân tích kết cấu của mỗi hình thái kinh tế – xã hội, với tất cả các quy luật tác động và chi phối nó, C.Mác đã kết luận: Sự thay thế của các hình thái kinh tế – xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên. Chính những kết luận như vậy tự nó đã mang đến cho mỗi sinh viên một niềm tin vào sự phát triển. Từ đó giúp họ có thái độ đúng đắn, khoa học đối với hiện thực cũng như khả năng phân tích và giải quyết các vấn đề mới nảy sinh trên tinh thần thế giới quan và phương pháp luận duy vật biện chứng. Điều này tạo ra trong mỗi sinh viên thái độ lạc quan cách mạng để vượt qua những thử thách, cam go trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. ở đây, với những tri thức được học, sinh viên sẽ hiểu rằng lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học được xây dựng trên cơ sở kế thừa một cách chọn lọc những tư tưởng về chủ nghĩa xã hội của nhân loại trong lịch sử và được phát triển một cách khoa học lên tầm cao mới, đáp ứng đúng quy luật phát triển của xã hội. Và Đảng ta đã vận dụng một cách sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa học vào thực tiễn n­ước ta để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Khi nhận thức rõ vấn đề đó, sinh viên sẽ tự nguyện, tự giác sống theo quan điểm sống của nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa như­ là một sự thôi thúc nội tâm. Mặt khác, việc giáo dục triết học Mác – Lênin còn giúp sinh viên có năng lực nhận diện rõ và đấu tranh chống lại những quan điểm trái với những nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa học, trái với chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng; kiên quyết đấu tranh chống lại chủ nghĩa xét lại, chủ nghĩa giáo điều, đứng vững trong cuộc đấu tranh phòng chống “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.

    Chủ nghĩa Mác – Lênin thực chất là học thuyết về con người và giải phóng con người. Học thuyết Mác – Lênin nói chung, triết học Mác – Lênin nói riêng trang bị cho sinh viên một nhân sinh quan khoa học và nhân đạo, chỉ ra mục đích cao cả nhất của cuộc sống là vì con ng­ười và vì sự nghiệp giải phóng con người. Mỗi con người chỉ đạt được lợi ích, nhu cầu cá nhân cao nhất khi nhận thức đúng đắn và tự nguyện, tự giác thực hiện lợi ích xã hội, lợi ích dân tộc mình. Nhân cách chỉ đư­ợc hình thành và phát triển khi giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội, hạnh phúc của mỗi cá nhân chỉ đ­ược đảm bảo và thực hiện khi hạnh phúc của toàn thể xã hội được đảm bảo, được thực hiện. Mỗi cá nhân chỉ đ­ược giải phóng khi sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng nhân loại được thực hiện. Qua việc thẩm thấu những tri thức này, mỗi sinh viên tự nguyện hướng đến lẽ sống cao đẹp “mình vì mọi ng­ười và mọi người vì mình”.

    Thứ ba, giáo dục triết học Mác – Lênin góp phần xây dựng lý tưởng cộng sản cho các thế hệ sinh viên Việt Nam. Lý tưởng giữ vai trò quan trọng trong quá trình hình thành nhân cách sinh viên, vì lý tưởng là mục đích cao nhất, đẹp nhất, tạo ra nghị lực giúp con người vượt qua mọi thách thức đạt đến mục tiêu đề ra. Mục tiêu cao nhất mà lý tưởng cộng sản hướng tới là xây dựng một chế độ xã hội tốt đẹp: Xã hội xã hội chủ nghĩa và sau này là xã hội cộng sản chủ nghĩa. ở đó, con người được tự do, bình đẳng và hạnh phúc. Sinh viên khi tiếp nhận những tri thức khoa học Mác – Lênin sẽ tìm kiếm được sức mạnh từ chính bản thân tri thức ấy để tự mình vươn lên, bồi dưỡng lý tưởng cộng sản, tin tưởng vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Có niềm tin, có hoài bão, sinh viên tất có ý chí thực hiện lý tưởng. Việc thực hiện lý tưởng không phải trừu tượng, xa vời, mà ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường họ cần xác lập ý chí học tập để sau này góp phần xây dựng Tổ quốc. Đồng thời, họ cần có tinh thần đấu tranh với những hành vi lệch chuẩn của một bộ phận sinh viên sống thiếu trách nhiệm, mất phương hướng, lòng tin, lý tưởng sa đà vào cuộc sống hưởng thụ, thực dụng chỉ nghĩ đến lợi ích riêng mình, vô cảm với lợi ích của đồng loại, của dân tộc.

    Sự hình thành và phát triển nhân cách  sinh viên Việt Nam hiện nay dưới tác động của giáo dục triết học Mác – Lênin cũng chính là quá trình hình thành ở họ những phẩm chất cần thiết, thể hiện sự tri thức hóa, sự trưởng thành đến độ nhất định về mặt xã hội, giúp sinh viên nâng cao nhận thức lý luận, ý thức chính trị, nhạy bén với thực tiễn, xử lý tốt các tình huống xảy ra trong thực tiễn, sống có lý tưởng, có ước mơ để học tập, phấn đấu và cống hiến. Trong cuộc sống con người không thể sống mà thiếu lý tưởng phấn đấu. Lý tưởng là sự thôi thúc nội tâm giúp con người hành động để thỏa mãn những nhu cầu, lợi ích của cá nhân và xã hội. Vì vậy, giáo dục triết học Mác – Lênin nhằm từng bước xây dựng lý tưởng cách mạng cho sinh viên là vấn đề được quan tâm hàng đầu. Đó cũng chính là giá trị đạo đức của từng cá nhân sinh viên mang nhân cách, là mục tiêu phấn đấu của mỗi sinh viên. Đạt đến mục tiêu này, giáo dục triết học Mác – Lênin hoàn toàn khẳng định vai trò quan trọng và quyết định của mình trong cuộc đấu tranh ngăn ngừa những biểu hiện về suy thoái đạo đức, nhân cách của sinh viên trước những tác động tiêu cực của quá trình phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế hiện nay.

    Trả lời

Viết một bình luận