5/ Bài tập 5: Giả sử trong một chuyến du lịch, có một du khách muốn hiểu rõ hơn về cây tre Việt Nam, em sẽ giới thiệu như thế nào? Hãy vận dụng những hiểu biết thực tế và qua văn bản “Cây tre Việt Nam” của nhà văn Thép Mới, em hãy viết một bài văn ngắn (khoảng một trang giấy) giới thiệu về cây tre VN. 6/ Bài tập 6: Cô Tô giờ đây là một danh lam thắng cảnh được nhiều du khách trong nước và bạn bè quốc tế quan tâm. Qua văn bản “Cô Tô” của Nguyễn Tuân và những hiểu biết thực tế, em hãy viết một bài văn ngắn giới thiệu về cảnh đẹp Cô Tô?
Bài 5 :
“Tre kiên cường, tre bất khuất…tre anh hùng lao động.”. Từ bao đời nay tre gắn bó mật thiết với hình ảnh của làng quê Việt Nam hàng ngàn năm nay, là biểu tượng luôn in sâu trong tâm trí của người Việt ta.
Ban đầu, tre là một mầm măng nhỏ, yếu ớt được bao bọc trong những lớp áo giáp có những chiếc gai nhỏ; rồi măng lớn dần theo thời gian, cởi bỏ lớp áo nâu để trở thành một cây tre xanh tốt, cứng cáp, dẻo dai. Tre vươn thẳng, hiên ngang giữa trời đất. Trung bình một cây tre trưởng thành cao cao trên 10m, thân tre thuôn dài, hình ống rỗng bên trong, màu xanh lục, đậm dần xuống gốc được chia thành nhiều khúc nhỏ, mỗi khúc được ngăn cách bởi một mắt tre màu nâu nhạt. Trên thân tre còn có nhiều gai nhọn. Lá tre mỏng manh một màu xanh non mơn mởn với những gân lá song song hình lưỡi mác mọc thành chùm. Rễ tre thuộc loại rễ chùm, cằn cỗi nhưng bám rất chắc vào đất giúp tre không bị đổ trước những cơn gió dữ. Một vòng đời của tre có thể lên đến gần trăm năm và khi tre nở hoa cũng là lúc vòng đời của nó khép lại. Hoa tre có màu vàng, nhỏ li ti, mọc thành chùm.
Đấy là còn chưa nói tới các loại vật dụng của nhà nông, cũng như nhiều loại vũ khí thời xưa của cha ông ta đều có phần cán, phần tay cầm làm bằng một loại cây nào đó thuộc họ tre. Cây gậy tầm vông thời đánh Pháp xâm lược là một chứng tích đã đi vào lịch sử. Cây nêu dựng lên trước cửa nhà vào dịp năm mới thời xưa để trừ ma quỷ, cái ống đựng bút và quản bút lông của các nhà nho mà những năm gần đây về nơi thôn dã ta còn thấy, đến những cánh diều mà hôm nay con trẻ còn chơi… tất cả đều làm từ tre. Vật dụng ngày càng có vẻ thuận tiện hơn, có vẻ đẹp đẽ hơn đã đẩy chúng ta xa rời thứ cây nhiều lợi ích như thế. Thậm chí có một thời ấu trĩ, người ta đã chặt đi những bụi tre gai quanh làng với lý do là chúng làm đất bạc màu. Những rặng tre rợp bóng ở đường làng, nghiêng xuống nơi bờ ao không còn mấy nữa. Nhiều người quên mất rằng bao đời tổ tiên người Việt khai phá đồng bằng Bắc Bộ được như ngày hôm nay là do đắp đê chống lụt, trị thuỷ. Những triền đê được giữ vững trước nước lụt, bão tố, ngoài phần công sức của người Việt xưa bao đời bồi đắp, thì còn có phần công sức của những bụi tre có tác dụng giữ đất, chống xói lở.
Bài 6 :
Nguyễn Tuân là một trong những tác giả lớn của văn học Việt Nam. Các tác phẩm của ông luôn thể hiện một cái nhìn mới mẻ, độc đáo về con người và thiên nhiên đặc biệt là trong các bài kí. Bài kí Cô Tô là một trong những tác phẩm viết về vẻ đẹp kì thú của một huyện đảo thuộc vịnh Bắc Bộ – huyện đảo Cô Tô. Đoạn trích ngắn trong sách giáo khoa đã cho thấy cái nhìn tinh tế, nhạy cảm của Nguyễn Tuân về con người và thiên nhiên nơi đây.
Mở đầu là khung cảnh Cô Tô sau cơn bão, Nguyễn Tuân bắt đầu điểm nhìn của mình từ bầu trời, đó là một ngày “trong trẻo, sáng sủa” khi mây đen và bụi bẩn đã bị xua tan hết. Điểm nhìn tiếp tục di chuyển xuống hàng cây, mặt nước và xa hơn là cả trong lòng biển mênh mông, rộng lớn: “Cây trên núi đảo lại thêm xanh mượt”, “nước biển lại lam biếc đậm đà hơn”, “cát lại vàng giòn hơn nữa”. Chỉ trong một câu văn ngắn Nguyễn Tuân đã sử dụng hàng loạt các tính từ chỉ màu sắc (xanh, lam, vàng), cùng với nghệ thuật chuyển đổi cảm giác (cát vàng giòn) cho ta thấy thiên nhiên đẹp đẽ, tinh khôi, trong trẻo và giàu sức sống.
Điều đặc biệt để làm nổi bật vẻ đẹp thiên nhiên Cô Tô, Nguyễn Tuân đã tỏ ra vô cùng tinh tế trong cách xử lí ngôn từ. Sự kết hợp các từ ngữ vô cùng độc đáo, những từ chỉ màu sắc luôn đi kèm thêm một tính từ khác: xanh đi cùng mượt, lam biếc kết hợp với đậm đà, vàng kết đôi với giòn. Với sự kết hợp từ ngữ linh hoạt Nguyễn Tuân đã cho người đọc hình dung đầy đủ, rõ nét hơn về vẻ đẹp của Cô Tô. Qua đó còn cho thấy khả năng quan sát tinh tế, tình yêu thiên nhiên tha thiết của ông. Bởi nếu không có tình yêu sâu đậm với thiên nhiên nơi đây thì Nguyễn Tuân sẽ không thể nào nhận ra những vẻ đẹp tiềm ẩn của chúng.
Sau sự huy hoàng, rực rỡ của thiên nhiên là cuộc sống hết sức bình dị của người dân trên đảo. Tác giả đã chọn cái giếng nước ngọt để đặt bút miêu tả cuộc sống con người nơi đây. Ông hòa vào nhịp sống của mọi người để cảm nhận đầy đủ nhất hơi thở, nhịp sống của con người trên đảo Cô Tô. Hình ảnh so sánh “cái giếng trên đảo như một cái bến nhưng đậm đà, mát mẻ hơn mọi cái bến trong đất liền” quả là một sự so sánh độc đáo, thú vị.
Mọi người gánh và múc nước nhộn nhịp để chuẩn bị cho cuộc sống, cho những chuyến ra khơi mới. Nhịp sống rộn ràng của gia đình anh chị Châu Hòa Mãn vô cùng ấm áp, bình dị. Hình ảnh chị Châu Hòa Mãn địu con khiến nhà văn bỗng liên tưởng chị như người mẹ hiền mớm cá cho lũ con lành, sự liên tưởng đó thật bất ngờ và thi vị. Cuộc sống sinh hoạt trên biển vừa sôi động, mạnh mẽ nhưng đồng thời cũng nhẹ nhàng, đời thường.
Thiên nhiên dưới ngòi bút của nhà văn Nguyễn Tuân thật tươi đẹp, thật khó để em nói hết được cảm xúc của mình.Thiên nhiên dưới ngòi bút của nhà văn Nguyễn Tuân thật tươi đẹp, thật khó để em nói hết được cảm xúc của mình.