Âm chính u khác am đệm u và bán ân cuối u ở những điểm nào
0 bình luận về “Âm chính u khác am đệm u và bán ân cuối u ở những điểm nào”
Được ghi bằng bán âm u hoặc o. Đây là âm làm tròn môi trước khi đọc âm chính, làm cho âm tiết có âm sắc trầm tối (gọi là bán âm, vì mặt chữ thì giống như nguyên âm, nhưng công dụng lại không giống như nguyên âm).
– Chính tả ghi bằng u trước các nguyên âm vừa hoặc hẹp (uê, uơ, uya).
– Chính tả ghi bằng o trước các nguyên âm rộng (oa, oe) trừ khi trước nó là phụ âm q thì lại ghi bằng u (qua, que = koa, koe).
– Vì âm đệm là âm tròn môi, nên nó không đi trước các nguyên âm tròn môi o, ô, u nữa.
– Khi phát âm, không được dừng lâu ở âm đệm, mà phải chuyển qua âm chính ngay.
Được ghi bằng bán âm u hoặc o. Đây là âm làm tròn môi trước khi đọc âm chính, làm cho âm tiết có âm sắc trầm tối (gọi là bán âm, vì mặt chữ thì giống như nguyên âm, nhưng công dụng lại không giống như nguyên âm).
có hai loại nguyên âm chính là nguyên âm đơn (a, ă, â, o, ô, ơ, u, ư, e, ê, i/y) và nguyên âm phức (ia (iê), ưa (ươ), ua (uô)).
* Dựa trên vị trí của lưỡi, người ta còn phân ra:
+ Nguyên âm hàng trước (lưỡi đưa ra trước, âm sắc sáng, bổng, môi bẹt): e, ê, i/y, iê (ia).
+ Nguyên âm hàng giữa (lưỡi nằm ở giữa, âm sắc trung hoà, môi không bẹt, không tròn): a (ă), ơ (â), ư, ươ (ua).[1]
+ Nguyên âm hàng sau (lưỡi rụt về sau, âm sắc tối, trầm, môi tròn): o, ô, u, uô (ua).
* Dựa trên độ mở của miệng, ta có 4 loại:
+ Nguyên âm rộng: e, a, o (âm lượng lớn)
+ Nguyên âm vừa: ê, ơ, ô (âm lượng vừa)
+ Nguyên âm hẹp: i, ư, u (âm lượng nhỏ)
+ Nguyên âm hẹp mở qua vừa: iê, ươ, uô (âm lượng nhỏ và lớn dần đến vừa)
Vị trí âm cuối do các bán âm cuối và phụ âm cuối đảm nhận.
*Bán âm cuối có 2 loại:
– Bán âm cuối bẹt miệng (lưỡi đưa ra trước) được ghi bằng i hoặc y:
+ Được ghi bằng y sau các nguyên âm ngắn ă, â: ăy, âu (hãy lấy: đáng lẽ ra chính tả phải ghi “hẵy” mới đúng ngữ âm).
+ Được ghi bằng i sau tất cả các nguyên âm còn lại mà không bẹt miệng (tức là bán âm i không đi sau các nguyên âm hàng trước, bẹt miệâng): ai ơi, ưi, ươi (ai # ăy) oi, ôi, ui, uôi.
– Bán âm cuối tròn môi (lưỡi rụt vào trong) được ghi bằng u hoặc o:
+ Không đi sau các nguyên âm hàng sau (tròn môi)
+ Được ghi bằng u sau các âm ngắn: âu, ău (trâu, tàu: đáng lẽ chính tả phải ghi “tằu” mới đúng ngữ âm)
+ Được ghi bằng u sau các âm vừa và âm hẹp: du, ưu, ươu, êu, iu, iêu (yêu)
+ Được ghi bằng o sau các âm rộng a, e = ao, eo (ao # ău)
Lưu ý:khi gặpaythì phải phân tích làăy, khi gặpauthì phải phân tích làău
* Phụ âm cuối gồm 8 âm chia làm 4 cặp như sau:
– Phụ âm môi: m – p (đóng tiếng bằng 2 môi): làm đẹp, rập rạp…
– Phụ âm đầu lưỡi: n – t (đóng lưỡi lên chân răng): ban hát, sền sệt…
– Phụ âm mặt lưỡi: nh – ch (đóng mặt lưỡi lên vòm miệng): chênh chếch, rách, rình
Lưu ý:nh – ch chỉ đi sau các nguyên âm hàng trước e – ê – i: enh ech, ênh êch, inh ich. Do đó, khi chính tả ghi anh, ach, ta phải phân tích là enh ech mới đúng.
– Phụ âm cuống lưỡi: ng – c (đóng cuống lưỡi lên vòm mềm): vang, dốc, vằng vặc…
Được ghi bằng bán âm u hoặc o. Đây là âm làm tròn môi trước khi đọc âm chính, làm cho âm tiết có âm sắc trầm tối (gọi là bán âm, vì mặt chữ thì giống như nguyên âm, nhưng công dụng lại không giống như nguyên âm).
– Chính tả ghi bằng u trước các nguyên âm vừa hoặc hẹp (uê, uơ, uya).
– Chính tả ghi bằng o trước các nguyên âm rộng (oa, oe) trừ khi trước nó là phụ âm q thì lại ghi bằng u (qua, que = koa, koe).
– Vì âm đệm là âm tròn môi, nên nó không đi trước các nguyên âm tròn môi o, ô, u nữa.
– Khi phát âm, không được dừng lâu ở âm đệm, mà phải chuyển qua âm chính ngay.
Được ghi bằng bán âm u hoặc o. Đây là âm làm tròn môi trước khi đọc âm chính, làm cho âm tiết có âm sắc trầm tối (gọi là bán âm, vì mặt chữ thì giống như nguyên âm, nhưng công dụng lại không giống như nguyên âm).
có hai loại nguyên âm chính là nguyên âm đơn (a, ă, â, o, ô, ơ, u, ư, e, ê, i/y) và nguyên âm phức (ia (iê), ưa (ươ), ua (uô)).
* Dựa trên vị trí của lưỡi, người ta còn phân ra:
+ Nguyên âm hàng trước (lưỡi đưa ra trước, âm sắc sáng, bổng, môi bẹt): e, ê, i/y, iê (ia).
+ Nguyên âm hàng giữa (lưỡi nằm ở giữa, âm sắc trung hoà, môi không bẹt, không tròn): a (ă), ơ (â), ư, ươ (ua).[1]
+ Nguyên âm hàng sau (lưỡi rụt về sau, âm sắc tối, trầm, môi tròn): o, ô, u, uô (ua).
* Dựa trên độ mở của miệng, ta có 4 loại:
+ Nguyên âm rộng: e, a, o (âm lượng lớn)
+ Nguyên âm vừa: ê, ơ, ô (âm lượng vừa)
+ Nguyên âm hẹp: i, ư, u (âm lượng nhỏ)
+ Nguyên âm hẹp mở qua vừa: iê, ươ, uô (âm lượng nhỏ và lớn dần đến vừa)
Vị trí âm cuối do các bán âm cuối và phụ âm cuối đảm nhận.
* Bán âm cuối có 2 loại:
– Bán âm cuối bẹt miệng (lưỡi đưa ra trước) được ghi bằng i hoặc y:
+ Được ghi bằng y sau các nguyên âm ngắn ă, â: ăy, âu (hãy lấy: đáng lẽ ra chính tả phải ghi “hẵy” mới đúng ngữ âm).
+ Được ghi bằng i sau tất cả các nguyên âm còn lại mà không bẹt miệng (tức là bán âm i không đi sau các nguyên âm hàng trước, bẹt miệâng): ai ơi, ưi, ươi (ai # ăy) oi, ôi, ui, uôi.
– Bán âm cuối tròn môi (lưỡi rụt vào trong) được ghi bằng u hoặc o:
+ Không đi sau các nguyên âm hàng sau (tròn môi)
+ Được ghi bằng u sau các âm ngắn: âu, ău (trâu, tàu: đáng lẽ chính tả phải ghi “tằu” mới đúng ngữ âm)
+ Được ghi bằng u sau các âm vừa và âm hẹp: du, ưu, ươu, êu, iu, iêu (yêu)
+ Được ghi bằng o sau các âm rộng a, e = ao, eo (ao # ău)
Lưu ý: khi gặp ay thì phải phân tích là ăy, khi gặp au thì phải phân tích là ău
* Phụ âm cuối gồm 8 âm chia làm 4 cặp như sau:
– Phụ âm môi: m – p (đóng tiếng bằng 2 môi): làm đẹp, rập rạp…
– Phụ âm đầu lưỡi: n – t (đóng lưỡi lên chân răng): ban hát, sền sệt…
– Phụ âm mặt lưỡi: nh – ch (đóng mặt lưỡi lên vòm miệng): chênh chếch, rách, rình
Lưu ý: nh – ch chỉ đi sau các nguyên âm hàng trước e – ê – i: enh ech, ênh êch, inh ich. Do đó, khi chính tả ghi anh, ach, ta phải phân tích là enh ech mới đúng.
– Phụ âm cuống lưỡi: ng – c (đóng cuống lưỡi lên vòm mềm): vang, dốc, vằng vặc…