C1: Trình bày cảm nhận của em về khổ thơ thứ nhất trong bài Nhớ Rừng theo kiểu diễn dịch trong đó sử dụng một câu cảm thán

C1: Trình bày cảm nhận của em về khổ thơ thứ nhất trong bài Nhớ Rừng theo kiểu diễn dịch trong đó sử dụng một câu cảm thán

0 bình luận về “C1: Trình bày cảm nhận của em về khổ thơ thứ nhất trong bài Nhớ Rừng theo kiểu diễn dịch trong đó sử dụng một câu cảm thán”

  1.      Hổ vốn là loài vật được xem là chúa tể muôn loài. Nhưng nay xa cơ bị nhốt trong cũi sắt, sống cảnh giam cầm, tù túng. Không gian sống của hổ bị thu hẹp, nhạt nhẽo, không tương xứng với tư cách của một vị chúa sơn lâm.

                                    Gậm một cũi căm hờn trong cũi sắt,

                                    Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua,

                                    Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ,

                                    Giương mắt bé giễu oai linh rừng thẳm.

                                    Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm,

                                     Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi,

                                    Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi,

                                    Với cặp báo chuồng bên vô tư lự.

         Động từ ” gậm ” diễn tả tâm trạng bức bối không yên. Càng ý thức thì nó càng thêm chua xót và đắng cay muôn phần ! Khi nó bị giam cầm trong cũi sắt, nỗi buồn tủi, uất ức, kết đặc thành khối căm hờn đè đặc trong lòng. Con hổ hất tung tảng đá vô hình đấy nhưng đành nằm dài buông xuôi. Hai câu với câu một nhiều thanh trắc, câu hai nhiều thanh bằng như tiếng thở dài ngao ngán của hổ. Hổ bất lực, không có cách nào thoát khỏi cuộc sống tù túng nên đành nằm đấy gặm nhấm nỗi uất ức, căm hờn. Nhưng dù trong hoàn cảnh tù túng đó giống hùng thiên nên hổ vẫn hiểu thân phận thật sự của mình là một vị chúa tể. Hổ tỏ ra thái độ khinh thường sự thiếu hiểu biết của con người về sức mạnh của thiên nhiên. Con người chỉ là những kẻ ngạo mạn, ngẩn ngơ dám chế giễu oai linh rừng thẳm. Con hổ chán nản khi phải chịu cảnh sống ngang bầy cùng bọn vô danh thấp kém đó là bạn : gấu dở hơi, bọn báo không biết suy nghĩ; hổ làm sao chịu được, làm sao chấp nhận số phận tù túng được ? Đành mệt mỏi, ngao ngán, buông xuôi, bất lực.

    Bình luận
  2. Trong sắc phai bẽ bàng của giấy, sự kết đọng lạnh lòng của mực tự thân nó đã dâng lên một nỗi buồn tủi. Là ngoại cảnh nhưng cũng là tâm cảnh, một nỗi buồn thắm thía, khiến cho những vật vô tri vô giác cũng nhuốm sầu như chủ nhân của chúng “một mình mình biết, một mình mình buồn”, “trĩu nặng những ưu tư, xót xa trước thời thế đổi thay”. Và càng đáng buồn hơn, đến khổ thơ thứ tư thì còn lại cái hình ảnh của ông đồ lặng lẽ, cô đơn giữa quang cảnh lạnh lẽo:

    Ông đồ vẫn ngồi đấy

    Qua đường không ai hay

    Lá vàng rơi trên giấy

    Ngoài trời mưa bụi bay.

    Bằng hi vọng mong manh còn lại, chút gắng gỏi vì miếng cơm manh áo,ông đồ vẫn kiên nhẫn ngồi đợi. Nhưng đáp lại sự đợi chờ vô vọng đó là những dáng tấp nập qua lại của mọi người, hờ hững, quên đi sự hiện diện của ông. Giữa cái ồn ào, náo động xung quanh là bóng dáng cô độc của ông đồ. Sự đối lập giữa ông đồ và cuộc sống tất bật khiến nhà thơ ngậm ngùi thương cảm. Giữa không gian đông người ấy, ông đồ vẫn ngồi, bóng dáng trầm tư có khác chăng Nguyễn Khuyến trước kia “tựa gối ôm cần lâu chẳng được”. Từng đợt lá vàng rơi xuống đường, rơi trên giấy cùng ánh mắt thẫn thờ như ngơ ngác trông ra màn mưa bụi mịt mờ thật ám ảnh, khiến cho con người dâng lên bao nỗi xót xa, đánh động vào lương tri của mỗi người. Không gian hoang vắng đến thê lương. Bất chợt tôi lại nghĩ đến câu thơ của Yến Lan trong Bến My Lăng: “Trăng thì đầy rơi vàng trên mặt sách”. “Lá vàng rơi trên giấy” cũng gợi ra cái không gian thấm đẫm nỗi buồn

    Bình luận

Viết một bình luận