Các danh nhân văn hóa, lịch sử thời Lê sơ: tiểu sử, các câu chuyện xoay quanh nhân vật này, các đóng góp cho lịch sử , sự nhận xét đánh giá của đời sau….
Nội dung các công trình Khoa học thời Lê Sơ (Đại Việt sử kí toàn thư, Đại thành Toán pháp, Dư địa chí …): Tác giả, nội dung, ý nghĩa, giá trị …?
giúp mình với mình đang cần gấp!

Nhà Lê sơ đôi khi gọi là nhà Hậu Lê Đây là thời kỳ mà chế độ quân chủ chuyên chế tập quyền trong lịch sử Việt Nam lần đầu tiên đạt đến đỉnh cao của sự phát triển cũng như suy thoái của nó. Nhà Lê sơ được thành lập sau khi Lê Lợi phát động Khởi nghĩa Lam Sơn đánh bại nhà Minh. Ông đổi tên Giao Chỉ , vốn tồn tại trong thời gian nội thuộc nhà Minh, trở về Đại Việt quốc hiệu có từ đời Lý Thánh Tông.
Thời đại Lê sơ có 10 vị hoàng đế thuộc 6 thế hệ, đây là thời kỳ các hoàng đế nhà Lê nắm trọn được quyền hành, cũng là thời kỳ vĩ đại, hoàng kim của chế độ phong kiến Việt Nam. Đời Lê Thái Tổ (Lê Lợi) và đặc biệt là đời Lê Thái Tông, xã hội được đi vào ổn định, phát triển thịnh vượng một cách mau chóng sau thời kỳ chiến tranh trước đó.
Dưới thời Lê Thánh Tông, Đại Việt phát triển cực thịnh về mọi mặt từ kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, quân sự. Nước Đại Việt từ trước chưa bao giờ cường thịnh và mạnh mẽ, có sức ảnh hưởng toàn khu vực lớn bằng thời này, thời kỳ này được gọi là Hồng Đức thịnh thế tính đến ảnh hưởng các đời sau là Lê Hiến Tông, Lê Túc Tông, là hơn 30 năm.
Lãnh thổ thời đại này tiếp tục được mở rộng ra hơn nữa, cực thịnh gấp mấy lần so với đời nhà Lý và nhà Trần. Cùng với quân sự hùng mạnh, các đời Thái Tông đến Thánh Tông liên tiếp sáp nhập lãnh thổ các quốc gia Bồn Man, Chiêm Thành; ngoài việc đối phó với các quốc gia, nền quân sự hùng mạnh khiến triều đình thẳng tay đàn áp các cuộc bạo loạn ở miền thượng, ổn định chính quyền trong thời gian dài. Mặt khác vì để đáp ứng một nền quân sự phát triển mạnh, nền kinh tế được phát triển theo thông qua buôn bán trong nước và thông thương với nước ngoài.
Thời kỳ nhà Hậu Lê bước vào giai đoạn trọng dụng quan lại, khác với nhà Trần bị chi phối bởi người trong hoàng tộc, luôn nắm đại quyền và được kế thừa nhau bằng việc thế tập. Triều đình mở nhiều khoa cử, thay đổi bộ máy chính quyền, không cho hoàng tộc các chức vụ thực quyền mà trọng dụng những người đã đổ khoa để bổ nhiệm, việc hạn chế sự thế tập dòng dõi quan lại giúp chế độ quan liêu hạn chế rất nhiều sự chuyên quyền dòng họ. Văn học Việt Nam được ghi nhận phát triển rực rỡ thời kỳ này, với việc Lê Thánh Tông mở ra Hội Tao đàn, chính Hoàng đế khuyến khích học thuật trong toàn quốc gia. Danh sử Ngô Sĩ Liên thuộc về triều đại này, đã biên soạn Đại Việt sử ký toàn thư, tiếp tục nối bước Lê Văn Hưu đời Trần ghi chép giai đoạn lịch sử một cách đầy đủ và hoàn thiện. Nhiều công trình sử liệu, văn học, thiên văn, quan chế… được hoàn thiện trong thời Lê Sơ.
Tồn tại từ năm 1428 đến năm 1527, kéo dài được 100 năm, triều đại này bị gián đoạn bởi nhà Mạc do Mạc Đăng Dung cướp ngôi và tự lập mình làm Hoàng đế, sau 6 năm được tái lập với tên gọi nhà Lê Trung hưng.
Khoa học kỹ thuật Đại Việt thời Lê Sơ phản ánh các thành tựu về khoa học tự nhiên như toán học, y học, thiên văn học và lịch pháp nước Đại Việt từ năm 1428 đến năm 1527.
Môn toán thời Lê Sơ được triều đình khá coi trọng. Trên thực tế, việc xây cất cung điện, đền chùa, chế tạo vũ khí cũng như làm cơ sở cho các môn khoa học khác như thiên văn học, luôn đòi hỏi phải tính toán.
Toán học thời kỳ này là toán học ứng dụng, với trình độ giải quyết các phép tính lập phương, khai bình phương, sai phân, tích phân và còn mang nhiều cách tính theo lối dân gian.
Hai nhà toán học thời Lê sơ là Lương Thế Vinh và Vũ Hữu.
Lương Thế Vinh được gọi là Trạng Lường. Ông đã bỏ ra nhiều thời gian đo đạc, tính toán ruộng đất trên thực địa, rồi rút ra những quy tắc chung để truyền dạy cho đời. Tác phẩm ông để lại là Đại thành Toán pháp.
Vũ Hữu được đánh giá là nhà toán học xuất sắc nhất thế kỷ 15. Tác phẩm Lập thành toán pháp cùng phương pháp đo tính ruộng đất của ông được phổ biến ra cả nước. Có lần Vũ Hữu tính toán số gạch cần thiết để tu bổ các cổng thành Thăng Long mà số gạch vừa đủ, không thừa, không thiếu một viên nào.
Môn Toán
Môn toán được sĩ tử theo học khá phổ biến và có sức hấp dẫn đối với nhiều người trong xã hội. Năm 1506, vua Lê Uy Mục mở kỳ thi toán ở sân điện Giảng Võ, có tới 3 vạn người tới dự thi. Triều đình lấy đỗ 1519 người, trong đó 144 người đỗ loại giỏi. Theo Lịch sử Việt Nam, viện sử học , nhà Lê tổ chức thi toán 10 năm 1 lần. Tuy nhiên, theo Khâm định Việt sử Thông giám cương mục, các kì thi Toán được ghi chép lại trong giai đoạn Lê sơ được tổ chức vào các năm 1437, 1472, và 1505, lệnh cho thi toán 15 năm một lần.
Y Học
Cơ quan đứng đầu triều đình về y học là Thái y viện chuyên lo chữa bệnh cho các thành viên trong cung đình. Đối với nhân dân, thường có các lang y ở các làng quê hành nghề chữa khám tư.
Lê Thánh Tông đề ra quy định giữ gìn vệ sinh an toàn thực phẩm và khám nghiệm pháp y khá nghiêm ngặt trong Luật Hồng Đức. Theo quy định, các nạn nhân bị chết trên đường mà thân thể có thương tích thì quan địa phương phải cho khám nghiệm pháp y rồi mới được chôn cất. Đồng thời, Lê Thánh Tông còn nghiêm cấm bán thịt hoặc chế biến thức ăn từ thịt thiu thối.
Hai nhà y học trong thời kỳ này là Phan Phu Tiên (đồng thời là nhà sử học) và Trạng nguyên Nguyễn Trực.
Phan Phu Tiên là tác giả sách Bản thảo thực vật toản yếu. Nội dung sách bao gồm các biện pháp chữa bệnh, nhưng chú trọng đến chế độ ăn uống hơn cả. Ông kê ra hơn 400 loại thức ăn động vật và thực vật ở Đại Việt và các công dụng của các loại thức ăn đó.
Nguyễn Trực có tác phẩm để lại là Bảo anh lương phương (Phương thuốc hay để bảo vệ trẻ nhỏ) viết xong năm 1455. Nguyễn Trực đã nêu ra 5 phép khám bệnh cho trẻ em, đi sâu vào bệnh đậu mùa và liệt kê 114 vị thuốc chữa bệnh này.
Thiên văn, lịch pháp và thủy văn
Cơ quan phụ trách công việc này trong triều đình là Thái sử viện. Người đứng đầu Thái sử viện là Thái sử lệnh, bên dưới có Thái sử thừa, Linh đài lang, thái chức và Chưởng lịch. Sang thời Lê Thánh Tông, cơ quan này đổi gọi là Tư thiên giám, với chức năng xem diễn biến thời tiết, thấy các “điềm lành” và “tai dị” được suy luận và làm tờ tấu trình.
Quan niệm của người Việt Nam thế kỷ 15 vẫn xem các hiện tượng gió, mưa, sương, tuyết… đều do sự vận hành của trăng sao, tức là khí hậu thuộc về môn thiên văn. Do đó công việc làm lịch, quan sát thiên văn và thủy văn vẫn được đặt chung trong một cơ quan như thời nhà Trần trước đây.
Người Việt ở nước ngoài
Có hai nhà khoa học lớn của Việt Nam thế kỷ 15 là Hồ Nguyên Trừng và Nguyễn An, nhưng không phục vụ được cho đất nước mà vì hoàn cảnh lịch sử đã bị bắt sang Trung Quốc, phục vụ cho nhà Minh.
Hồ Nguyên Trừng là hoàng tử nhà Hồ, anh vua Hồ Hán Thương. Ông bị bắt sang Trung Quốc khi nhà Hồ thất bại. Tại Trung Quốc, ông đã chế ra súng Thần công gồm ba loại: đại, trung tiểu.
Nguyễn An là kiến trúc sư, xây dựng nhiều công trình ở Cố Cung Bắc Kinh và hệ thống cống, đập trên sông Hoàng Hà.
Bạn có thể rút ngắn lại nhé! Có thể câu trả lời không khớp mong bạn thông cảm!