các phong trào kháng chiến chống pháp những năm cuối thế kỉ XIX

các phong trào kháng chiến chống pháp những năm cuối thế kỉ XIX

0 bình luận về “các phong trào kháng chiến chống pháp những năm cuối thế kỉ XIX”

  1. a.Diễn biễn cuộc khởi nghĩa được chia làm 2 giai đoạn:

    – Từ năm 1885 – 1888: giai đoạn chuẩn bị lực lượng, xây dựng cơ sở chiến đấu của nghĩa quân.

    – Từ năm 1888 – 1896: giai đoạn chiến đấu quyết liệt.

    + Dựa vào vùng rừng núi hiểm trở, có sự chỉ huy thống nhất và phối hợp tương đối chặt chẽ, nghĩa quân đã đẩy lui nhiều cuộc hành quân càn quét của địch.

    + Để đối phó Pháp tập trung binh lực và xây dựng một hệ thống đồn, bốt nhằm bao vây, cô lập nghĩa quân. Đồng thời chúng mở nhiều cuộc tấn công quy mô vào căn cứ chính Ngàn Trươi.

    + Nghĩa quân phải chiến đấu trong điều kiện ngày càng gian khổ hơn, lực lượng suy yếu dần.

    + Sau khi Phan Đình Phùng hi sinh (28-12-1895), cuộc khởi nghĩa được duy trì thêm một thời gian dài rồi tan rã.

    Diễn biễn cuộc khởi nghĩa được chia làm 2 giai đoạn:

    – Từ năm 1885 – 1888: giai đoạn chuẩn bị lực lượng, xây dựng cơ sở chiến đấu của nghĩa quân.

    – Từ năm 1888 – 1896: giai đoạn chiến đấu quyết liệt.

    + Dựa vào vùng rừng núi hiểm trở, có sự chỉ huy thống nhất và phối hợp tương đối chặt chẽ, nghĩa quân đã đẩy lui nhiều cuộc hành quân càn quét của địch.

    + Để đối phó Pháp tập trung binh lực và xây dựng một hệ thống đồn, bốt nhằm bao vây, cô lập nghĩa quân. Đồng thời chúng mở nhiều cuộc tấn công quy mô vào căn cứ chính Ngàn Trươi.

    + Nghĩa quân phải chiến đấu trong điều kiện ngày càng gian khổ hơn, lực lượng suy yếu dần.

    + Sau khi Phan Đình Phùng hi sinh (28-12-1895), cuộc khởi nghĩa được duy trì thêm một thời gian dài rồi tan rã.

    b)Khởi nghĩa Hương Khê là cuộc khởi nghĩa tiêu biểu nhất trong phong trào Cần Vương, vì:

     Quy mô, địa bàn hoạt động rộng lớn, gồm 4 tỉnh bắc Trung Kì: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình.

     Trình độ tổ chức quy củ: gồm 15 quân thứ, mỗi quân thứ có từ 100 đến 500 người do các tướng lĩnh tài ba chỉ huy.

     Thời gian tồn tại dài nhất trong các cuộc khởi nghĩa của phong trào Cần Vương, 10 năm từ năm 1885 đến năm 1896.

    – Khởi nghĩa thất bại đánh dấu mốc kết thúc của phong trào đấu tranh chống Pháp dưới ngọn cờ Cần Vương.

    * Chú ý: Dựa trên các tiêu chí quy mô, thời gian, tính quyết liệt,… của cuộc khởi nghĩa Hương Khê so với các cuộc khởi nghĩa khác trong phong trào Cần Vương để đưa ra nhận xét.

    2.

    Hoạt động của nghĩa quân Yên Thế chia làm 4 giai đoạn:

    * Giai đoạn thứ nhất, từ 1884 – 1892:

    – Tại vùng Yên Thế có hàng chục toán quân chống Pháp hoạt động riêng lẻ, đặt dưới sự chỉ huy của các thủ lĩnh khác nhau, thủ lĩnh có uy tín nhất lúc đó là Đề.

    – Năm 1891, nghĩa quân của Đề Nắm làm chủ một vùng rộng lớn và mở rộng hoạt động sang Phủ Lạng Thương (vùng thành phố Bắc Giang ngày nay).

    – Tháng 3-1892, Pháp huy động quân, ồ ạt tấn công vào căn cứ của nghĩa quân. Lực lượng nghĩa quân bị tổn thất nặng, nhiều người bị địch bắt và giết hại, một số phải ra hàng.

    * Giai đoạn thứ hai, từ 1893 – 1897:

    – Sau khi Đề Nắm hi sinh, Hoàng Hoa Thám (Đề Thám) tập hợp những toán quân binh còn sót lại, mở rộng địa bàn hoạt động.

    – Trong bối cảnh khó khăn, Đề Thám phải giảng hòa với Pháp để có thời gian củng cố lực lượng.

    – Tháng 10-1894, theo thỏa thuận giữa hai bên, quân Pháp rút khỏi Yên Thế, Đề Thám được cai quản bốn tổng: Yên Lễ, Mục Sơn, Nhã Nam, Hữu Thượng. Nhưng sau đó Pháp bội  ước, tổ chức tấn công lại (11-1895). Nghĩa quân phải chia nhỏ thành từng toán, trà trộn vào dân để hoạt động.

    – Nhằm bảo toàn lực lượng, Đề Thám xin giảng hòa lần thứ hai (12-1897). Bề ngoài, Đề Thám tỏ ra phục tùng, nhưng bên trong thì ngấm ngầm chuẩn bị lực lượng chống Pháp.

    * Giai đoạn thứ ba từ 1898 – 1908:

    – Tranh thủ thời gian hòa hoãn, Đề Thám cho nghĩa quân vừa sản xuất, vừa tích cực luyện tập quân sự chuẩn bị chiến đấu.

    – Căn cứ Yên Thế trở thành nơi tụ hội của những nghĩa sĩ yêu nước từ khắp nơi kéo về (từ Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa, Hưng Yên, Hải Dương…)

    * Giai đoạn thứ tư từ 1909 – 1913:

    – Nội năm 1908, thực dân Pháp mở cuộc tấn công nhằm tiêu diệt bằng được phong trào nông dân Yên Thế.

    – Tháng 2-1913, khi Đề Thám bị sát hại, phong trào tan rã.

    Bình luận
  2. . Phong trào Cần vương bùng nổ và lan rộng.

    – Tôn Thất Thuyết nhân danh nhà vua hạ Chiếu Cần vương, kêu gọi văn thân, sĩ phu, nhân dân yêu nước đứng lên giúp vua cứu nước.

    – Phong trào kháng Pháp sôi nổi lan rộng cả nước

    – Giai đoạn 1: 1885-1888, phong trào bùng nổ trên khắp cả nước, nhất từ Phan Thiết trở ra(Trung Kì, Bắc Kì).

    – Giai đoạn 2: 1888 – 1896, nhiều cuộc khởi nghĩa lớn, có quy mô và trình độ tổ chức cao.

    II. Những cuộc khởi nghĩa lớn trong phong trào Cần vương

    3. Khởi nghĩa Hương Khê(1885-1895)

    a. Căn cứ:

    Căn cứ Ngàn Trươi, Huyện Hương Khê và Hương Sơn thuộc

    tỉnh Hà Tỉnh, sau đó lan rộng ra nhiều tỉnh khác. Địa hình hiểm

    trở.

    b. Lãnh đạo:

    Phan Đình Phùng và Cao Thắng.

    c. Diễn biến:

    – Giai đoạn 1: 1885-1888, nghĩa quân xây dựng lực lượng, luyện

    tập quân đội,rèn đúc vũ khí.

    – Giai đoạn 2: 1888-1895, nghĩa quân tập kích nhiều nơi, đảy lùi

    nhiều cuộc càn quét của địch..

    – Pháp tập trung binh lực bao vây, cô lập nghĩa quân và tấn công

    vào căn cứ Ngàn Trươi.

    – 28/12/1895, Phan Đình Phùng hy sinh, nghĩa quân tan rã.

    * Ý nghĩa:

    Khởi nghĩa tiêu biểu, có quy mô lớn nhất, trình độ tổ chức cao và

    chiến đấu bền bỉ.

    Khởi nghĩa Hương khê chịu ảnh hưởng  hệ tư tưởng phong kiến đã

    hoàn toàn thất bại. Phong trào yêu nước Việt Nam chuyển qua một

    giai đoạn mới. 

    Bình luận

Viết một bình luận