Câu 1: Sau khi chiếm được 3 tỉnh miền Đông Nam Kì, thực dân Pháp tiến hành ngay việc xây dựng bộ máy cai trị như thế nào?
Câu 2: ” Trăm trận gian nan mà chẳng chết
Một hòa tạm bợ lại quyên sinh
Cửa trời đã đón người quân tử
Bể ngọc khôn mặt lão thành
Danh vọng thế mà lâm cảnh thế
Quả trời không muốn để tròn danh”
( Nguyễn Thiện Thuật )
Bài thơ của Nguyễn Thiện Thuật viết về nhân vật lịch sử nào?
Câu 3: Tại sao sau gần 10 năm chờ đợi thực dân Pháp mới đánh Bắc Kì lần thứ hai ( 1873- 1882)?
Câu 4: Vì sao triều Nguyễn kí với Pháp hiệp ước Hác- măng 25-8-1883 rồi sau đó lại đến hiệp ước Pa-tơ-nốt 6-6-1884? Nội dung hiệp ước Pa-tơ-nốt có gì giống và khác hiệp ước Hác- măng?
Câu 1:
Triều đình nhà Nguyễn (vua Tự Đức) một mặt đưa quân vào Đà Nẵng chống đỡ, một mặt tích cực tiến hành công tác tổ chức phòng thủ các cửa ải, cửa biển trên đất Thừa Thiên và kinh đô Huế, tổ chức tập trận nhằm đảm bảo sức chống đỡ của kinh đô một khi quân Pháp tiến đánh.
Trong bối cảnh ấy, quân và dân Thừa Thiên ra sức, đồng lòng chống giặc. Từ Huế 2.000 Cấm binh, 200 lính Vũ lâm, 400 lính các vệ ở Hải Vân quan vào Đà Nẵng đánh Pháp. Ngoài ra, triều đình Huế còn lệnh cho quan phủ Thừa Thiên chiêu mộ binh lính lập quân Chiến tâm. Tháng 12/1858, quân Chiến tâm được đổi thành vệ Nghĩa dũng, tăng cường vào Quảng Nam đánh giặc.
Sau 18 tháng tiến công vào Đà Nẵng nhưng không đạt mục tiêu tiến sâu vào nội địa, ngày 23/3/1860, liên quân Pháp – Tây Ban Nha phải rút hết lực lượng đưa quân vào tiến đánh phía Nam.
Tuy đuổi được quân Pháp – Tây Ban Nha ra khỏi Đà Nẵng, nhưng sau đó quan quân triều đình không phát huy được sức mạnh giữ nước ở mặt trận phía Nam, nên từ năm 1860 đến 1862, các tỉnh Gia Định, Biên Hòa, Định Tường và Vĩnh Long lần lượt thất thủ. Trước sức ép của quân Pháp, triều đình Huế đã đồng ý ký hiệp ước Nhâm Tuất (1862) với 12 khoản, cắt ba tỉnh miền Đông Nam kỳ (Gia Định, Biên Hòa, Định Tường) và quần đảo Côn Lôn cho Pháp.
Nhân dân Thừa Thiên Huế cũng như nhân dân cả nước vô cùng phản đối sự nhân nhượng, cắt đất cho giặc của triều đình nhà Nguyễn. Nguy cơ mất nước đang trở thành mối đe dọa hết sức nặng nề.
Việc mất 3 tỉnh miền đông Nam Kỳ đã phô bày sự yếu kém về nhiều mặt của đất nước và năng lực hạn chế của triều Nguyễn. Trong bối cảnh đó, những người Việt Nam có tri thức và tâm huyết cứu nước rất muốn thực hiện việc canh tân đất nước nhằm tạo thực lực, đẩy mạnh tự cường đưa đất nước thoát khỏi nạn ngoại xâm.
Huế với vị trí là Kinh đô của cả nước, mặc nhiên trở thành trung tâm của trào lưu canh tân đất nước – nơi những nhà cải cách khắp đất nước cũng như ở tại địa phương tập trung để bàn luận, trao đổi tân thư, soạn thảo và dâng các bản kiến nghị cách tân lên triều đình Huế. Các bản kiến nghị đề cập canh tân đến nhiều lĩnh vực: kinh tế, chính trị, quân sự, quốc phòng, pháp luật, văn hóa giáo dục… Thành phần đề xướng trào lưu cải cách khá đa dạng từ người Thiên chúa giáo, người có học bình thường, nho sĩ, người đỗ đạt, quan lại bị cách chức…, Ở Thừa Thiên Huế nổi bật có Đặng Huy Trứ và Nguyễn Lộ Trạch.