câu 1: sự khác nhau giữa xã hội nguyên thủy với xã hội chiếm hữu nô lệ?
câu 2: xã hội nguyên thủy trải qua những giai đoạn nào?
câu 3: trình bày cuộc kháng chiến chống quân xâm lược tần? kết quả?
câu 1: sự khác nhau giữa xã hội nguyên thủy với xã hội chiếm hữu nô lệ?
câu 2: xã hội nguyên thủy trải qua những giai đoạn nào?
câu 3: trình bày cuộc kháng chiến chống quân xâm lược tần? kết quả?
c2:
*Bảng các giai đoạn phát triển của xã hội nguyên thủy ở Việt Nam
Thời gian
Địa điểm
Công cụ sản xuất
Người tối cổ
Cách ngày nay 40 – 30 vạn năm.
Hang Thẩm Khuyên, Thẩm Hai (Lạng Sơn), núi Đọ, Quan Yên (Thanh Hóa), Xuân Lộc (Đồng Nai),…
Công cụ được ghè đẽo thô sơ, không có hình thù rõ ràng.
Người tinh khôn
Cách ngày nay 3 – 2 vạn năm.
Mái đá Ngườm (Thái Nguyên), Sơn Vi (Phú Thọ) và nhiều nơi khác thuộc Sơn La, Bắc Giang, Thanh Hóa, Nghệ An,…
Rìu bằng hòn cuội, được ghè đẽo thô sơ, có hình thù rõ ràng.
Người tinh khôn trong giai đoạn phát triển
Cách ngày nay 12.000 – 4.000 năm.
Hoà Bình, Bắc Sơn (Lạng Sơn), Quỳnh Văn (Nghệ An), Hạ Long (Quảng Ninh), Bàu Tró (Quảng Bình).
Rìu đá, rìu có vai
c3:
– Hoàn cảnh:
+ Vào cuối thế kỉ III TCN – đời vua Hùng thứ 18, đất nước Văn Lang không còn yên bình như trước nữa. “Vua không lo sửa sang võ bị, chỉ ham ăn uống, vui chơi. Lụt lội xảy ra, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn”.
+ Năm 218 TCN, vua Tần sai quân đánh xuống phương Nam để mở rộng bờ cõi. Sau 4 năm chinh chiến, quân Tần kéo đến vùng Bắc Văn Lang, nơi người Lạc Việt cùng sống với người Tây Âu (hay Âu Việt), vốn có quan hệ gần gũi với nhau từ lâu đời.
– Diễn biến:
+ Cuộc kháng chiến bùng nổ. Người thủ lĩnh Tây Âu bị giết nhưng nhân dân Tây Âu – Lạc Việt không chịu đầu hàng, sử cũ Trung Quốc chép: “Người Việt trốn vào rừng, không ai chịu để quân Tần bắt… Rồi họ đặt người kiệt tuấn lên làm tướng, ngày ở yên, đêm đến ra đánh quân Tần”.
+ Người kiệt tuấn đó là Thục Phán.
– Kết quả:
+ Cuộc chiến đấu kiên cường, quyết liệt của cư dân Tây Âu – Lạc Việt đã làm quân Tần như “đóng binh ở đất vô dụng, tiến không được, thoái không xong”.
+ Sáu năm sau, “người Việt đã đại phá quân Tần, giết được Hiệu úy Đồ Thư”. Nhà Tần phải hạ lệnh bãi binh.