Câu 1: tình hình kinh tế Mỹ trong những thập niên 20 của thế kỷ 20? Nguyên nhân của sự phát triển đó Câu 2: tình hình Nhật Bản trong những năm 1929

Câu 1: tình hình kinh tế Mỹ trong những thập niên 20 của thế kỷ 20? Nguyên nhân của sự phát triển đó
Câu 2: tình hình Nhật Bản trong những năm 1929 – 1939? Vì sao giới cầm quyền Nhật Bản lại tiến hành chiến tranh xâm lược bành trướng ra nước ngoài?
Câu 3: chiến tranh thế giới thứ hai đã gây ra trước hậu quả Như thế nào so với nhân loại ? Từ đó em cần rút ra nhiệm vụ gì cho bản thân?

0 bình luận về “Câu 1: tình hình kinh tế Mỹ trong những thập niên 20 của thế kỷ 20? Nguyên nhân của sự phát triển đó Câu 2: tình hình Nhật Bản trong những năm 1929”

  1. 1

    Nền kinh tế Mĩ trong thập kỉ 20 của thế kỉ XX : Phát triển phồn vinh nhưng vẫn tồn tại những hạn chế.

    Sự phồn vinh của kinh tế Mĩ được thể hiện ở mức tăng trưởng cao của các ngành kinh tế. Chỉ trong vòng 6 năm (1923-1929), sản lượng công nghiệp tăng 69%. Năm 1929, Mĩ chiếm 48% sản lượng công nghiệp thế giới, vượt qua sản lượng công nghiệp của 5 cường quốc công nghiệp là Anh, Pháp, Đức, I-ta-li-a và Nhật Bản cộng lại. Mĩ đứng đầu thế giới về các ngành công nghiệp sản xuất ô tô, thép, dầu mỏ… Đặc biệt, sự bùng nổ của ngành sản xuất ô tô đã tác động mạnh đến các ngành công nghiệp khác. Năm 1919, nước Mĩ sản xuất được 7 triệu ô tô, đến năm 1924 đạt 24 triệu chiếc.

    Về tài chính, từ chỗ phải vay nợ châu Âu 6 tỉ đô la trước chiến tranh, Mĩ đã trở thành chủ nợ của thế giới (riêng Anh và Pháp nợ Mĩ 10 tỉ đô la). Năm 1929, Mĩ nắm 60% số vàng dự trữ của thế giới.

    Mặc dù đạt mức tăng trưởng cao, nhưng ngay cả trong thời kì phồn vinh này, nhiều ngành công nghiệp của Mĩ chỉ sử dụng 60-80% công suất. Sự phát triển kinh tế chạy theo lợi nhuận, theo chủ nghĩa tự do thái quá đã đưa đến sự phát triển không đồng bộ giữa các ngành công nghiệp, giữa công nghiệp với nông nghiệp, và không có kế hoạch dài hạn cho sự cân đối giữa sản xuất và tiêu dùng.

    2

    Giới cầm quyền Nhật Bản gây chiến tranh xâm lược bành trướng ra bên ngoài: để giải quyết khó khăn do thiếu nguồn nguyên liệu và thị trường tiêu thụ hàng hóa, thực hiện tham vọng mới mang phạm vi ảnh hưởng của phát xít Nhật.

    3

    Chiến tranh kết thúc, hàng triệu người dân và người tị nạn châu Âu bị mất nhà cửa. Nền kinh tế cả châu lục sụp đổ, phần lớn các hạ tầng công nghiệp bị phá hủy. Liên Xô bị ảnh hưởng nặng nề nhất với thiệt hại của nền kinh tế lên đến 30%.

    Những trận ném bom của Không quân Đức vào Frampol, Wieluń và Warsaw, Ba Lan năm 1939 đã hình thành khái niệm ném bom chiến lược nhắm hoàn toàn vào dân thường. Những trận ném bom tương tự sau đó của cả quân Đồng Minh và quân Trục đã khiến nhiều thành phố bị tàn phá nặng nề.

    Những nỗ lực tham chiến đã làm nên kinh tế Vương quốc Anh kiệt quệ. Chính phủ liên minh tạm thời trong chiến tranh bị giải thể, bầu cử mới được tổ chức và đảng của tướng Winston Churchill thất bại với số phiếu áp đảo thuộc về Đảng Lao động.

    Năm 1947, bộ trưởng quốc phòng Mỹ George Marshall đã triển khai kế hoạch phục hưng châu Âu (Kế hoạch Marshall), kéo dài từ năm 1948 – 1952. 17 tỉ USD đã được sử dụng để phục hồi lại nền kinh tế Tây Âu.

    Hậu quả vô cùng nặng nề đối với nhân loại. Hơn 70 quốc gia với 1 700 triệu người đã bị lôi cuốn vào vòng chiến, khoảng 60 triệu người chết, 90 triệu người tàn phế và nhiều làng mạc, thành phố bị phá hủy, thiệt hại về vật chất gấp 10 lần chiến tranh thế giới thứ nhất, bằng tất cả các cuộc chiến tranh trong 1000 năm trước đó cộng lại.

    Bình luận
  2. Chiến tranh thế giới thứ nhấtBách khoa toàn thư mở Wikipedia(đổi hướng từ Tổn thất trong Chiến tranh thế giới thứ nhất)Bước tới điều hướngBước tới tìm kiếmChiến tranh thế giới thứ nhất
    Theo chiều kim đồng hồ từ trên xuống:

    • Quang cảnh Bapaume sau trận sông Somme, 1916
    • Xe tăng Mark V của Anh băng qua phòng tuyến Hindenburg, 1918
    • HMS Irresistible bị chìm sau khi va vào một quả mìn ở Dardanelles, 1915
    • Một đội súng máy Vickers của Anh đeo mặt nạ phòng độc trong trận sông Somme, 1916
    • Máy bay chiến đấu Albatros D.III của Đức gần Douai, Pháp, 1917

    Thời gian28 tháng 7 1914 – 11 tháng 11 1918
    (4 năm, 3 tháng và 2 tuần)
    (ngừng chiến)
    Hòa ước Versailles ký ngày 28 tháng 6 năm 1919.Địa điểmChâu Âu, Châu Phi, Trung Đông, Trung Quốc  Thái Bình Dương.Nguyên nhânMâu thuẫn lợi ích giữa các nước lớn tại châu Âu
    Vụ ám sát Đại Công tước Franz Ferdinand (28 tháng 6)
    Áo-Hung tuyên chiến với Serbia (28 tháng 7); Nga kéo quân vào Áo-Hung (29 tháng 7).Kết quảPhe Hiệp ước chiến thắng kiểu Pyrros
    Đế quốc Nga, Đức, Áo-Hung và Ottoman sụp đổ;[1]
    Kinh tế Anh, Pháp suy kiệt;[2]
    Đức bị mất nhiều lãnh thổ và phải bồi thường khoản tiền rất lớn, nhưng nền công nghiệp ít bị tổn hại[3]
    Hoa Kỳ thu lợi nhuận lớn và vượt lên các nước châu Âu về kinh tế
    Nhiều quốc gia mới tại châu Âu và Trung Đông được thành lập
    Hội nghị Versailles
    Thành lập Hội Quốc Liên.Tham chiếnHiệp ước

    •  Đế quốc Anh
    •  Đệ tam Cộng hòa Pháp
    •  Đế quốc Nga (1914–1917)
    •  Vương quốc Ý (1915–1918)
    •  Hoa Kỳ (1917–1918)
    •  Vương quốc Romania (1916–1918)
    •  Đế quốc Nhật Bản
    •  Vương quốc Serbia
    •  Bỉ
    •  Vương quốc Hy Lạp (1917–1918)
    •  Bồ Đào Nha (1916–1918)
    •  Vương quốc Montenegro (1914–1916)
    •  Brazil (1917–1918)

    Hỗ trợ bởi:

    •  Chính phủ México

    và nhiều nước khác

    Liên minh Trung tâm

    •  Đế quốc Đức
    •  Áo-Hung
    •  Đế quốc Ottoman
    •  Vương quốc Bulgaria (1915–1918)
    • Jabal Shammar
    • Triều đình Pahlavi

    Được hỗ trợ bởi:

    •  Tây Ban Nha
    •  Phe nổi dậy México

    và nhiều nước khác

    Chỉ huy và lãnh đạoLãnh đạo và chỉ huy quân sự

     George V
     H. H. Asquith
     David Lloyd George
     Douglas Haig
     Raymond Poincaré
     Georges Clemenceau
     Ferdinand Foch
     Nikolai II
     Nikolai Nikolayevich
     Vittorio Emanuele III
     Antonio Salandra
     Vittorio Orlando
     Luigi Cadorna
     Armando Diaz
     Thiên hoàng Đại Chính
     Woodrow Wilson
     John J. Pershing
     Venceslau Brás
    Và nhiều người khác

    Lãnh đạo và chỉ huy quân sự

     Wilhelm II
     Paul von Hindenburg
     Erich von Falkenhayn
     Erich Ludendorff
     Franz Joseph I
     Karl I
     Conrad von Hötzendorf
     Mehmed V
     Mehmed VI
     Enver Pasha
     Mustafa Kemal Pasha
     Ferdinand I
     Nikola Zhekov
     Emiliano Zapata
     Francisco Villa
    và nhiều người khác

    Lực lượngHiệp ước[4]

     Đế quốc Nga 12.000.000

     Đế quốc Anh 8.841.541[5]

     Đệ tam Cộng hòa Pháp 8.660.000[6]

     Vương quốc Ý 5.093.140

     Hoa Kỳ 4.743.826

     Brazil 2.930.000

     Vương quốc Romania 1.234.000

     Đế quốc Nhật Bản 800.000

     Vương quốc Serbia 703.430

     Bỉ 380.000

     Vương quốc Hy Lạp 250.000

     Bồ Đào Nha 200.000

     Vương quốc Montenegro 50.000

    Tổng cộng: 45.889.850

    Liên minh Trung tâm[4]

     Đế quốc Đức 13.250.000

     Áo-Hung 7.800.000

     Đế quốc Ottoman 2.998.321

     Vương quốc Bulgaria 1.200.000

    Tổng cộng: 25.248.321

    Thương vong và tổn thấtBinh lính chết:
    5.525.000
    Binh lính bị thương:
    12.831.500
    Binh lính mất tích:
    4.121.000
    Tổng cộng:
    22.477.500 chết, bị thương và mất tích thêm chi tiết.Binh lính chết:
    4.386.000
    Binh lính bị thương:
    8.388.000
    Binh lính mất tích:
    3.629.000
    Tổng cộng:
    16.403.000 chết, bị thương và mất tích thêm chi tiết.

    • x
    • t
    • s

    Các mặt trận trong Chiến tranh thế giới thứ nhất

    Chiến tranh thế giới thứ nhất, còn được gọi là Đại chiến thế giới lần thứ nhất, Đệ nhất Thế chiến hay Thế chiến I, là một cuộc chiến tranh thế giới diễn ra từ ngày 28 tháng 7 năm 1914 đến ngày 11 tháng 11 năm 1918.

    Cuộc chiến tranh này là một trong những sự kiện có ảnh hưởng nhất trong lịch sử thế giới.[1] Đây là cuộc chiến tranh có chiến trường chính bao trùm khắp châu Âu và ảnh hưởng ra toàn thế giới, lôi kéo tất cả các cường quốc châu Âu  Bắc Mỹ vào cuộc chiến với số lượng người chết trên 19 triệu người, đồng thời có sức tàn phá và ảnh hưởng về vật chất lẫn tinh thần của nhân loại rất sâu sắc và lâu dài. Khác với các cuộc chiến tranh trước đó, người Âu châu phải chiến đấu cả trên chiến trường lẫn ở hậu phương. Phụ nữ phải làm việc thay nam giới, đồng thời sự phát triển của công nghệ cũng có ảnh hưởng đến tính chất chiến tranh; có thể thấy sự hiệu quả của không quân  xe tăng trong chiến đấu kể từ cuộc Đại chiến này.[2][7] Chiến tranh chiến hào gắn liền với cuộc Đại chiến thế giới lần thứ nhất trong thời gian đầu của nó.[8]

    Đây là cuộc chiến giữa phe Hiệp Ước (chủ yếu là Anh, Pháp, Nga và sau đó là Hoa Kỳ, Brasil) với phe Liên minh Trung tâm (chủ yếu là Đức, Áo-Hung, Bulgaria  Ottoman). Cuộc chiến bắt đầu với Vụ ám sát thái tử Áo-Hung, dẫn đến việc Áo – Hung tuyên chiến với Serbia.[9][10] Sự kiện này được nối tiếp bởi việc Hoàng đế Đức  Wilhelm II truyền lệnh cho các tướng lĩnh đưa quân tấn công Bỉ, Luxembourg  Pháp, theo kế hoạch Schlieffen.[11] Hơn 70 triệu quân nhân được huy động ra trận chiến, trong số đó có 60 triệu người Âu châu, trong 1 trong những cuộc chiến tranh lớn nhất trong lịch sử.[12][13] Trong cuộc chiến tranh kinh hoàng này, Pháp là nước chịu tổn thất nặng nề hơn cả và hoàn toàn bị kiệt quệ, dẫn tới sự đại bại của họ trong các cuộc chiến tranh về sau.[14][15] Những trận đánh khốc liệt nhất trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất cũng diễn ra trên đất Pháp.[16] một trận đánh đáng nhớ của cuộc Đại chiến là tại Verdun cùng năm đó, khi quân Đức tấn công thành cổ Verdun của Pháp, nhưng không thành công.[17] Tuy nhiên, trận chiến đẫm máu nhất là tại sông Somme (1916), khi liên quân Anh  Pháp đánh bất phân thắng bại với quân Đức[18], trong khi chiến dịch quân sự lớn nhất là Cuộc tổng tấn công của Brusilov, khi quân Nga đánh bại liên quân Áo-Hung và Đức.

    Tất cả những đế quốc quân chủ (trừ Đế quốc Anh) đều sụp đổ trong cuộc chiến tranh này. Đảng Bolshevik lên nắm quyền tại nước Nga sau cuộc Cách mạng Tháng Mười lật đổ Nga hoàng, trong khi việc Đức bại trận lại tạo điều kiện cho Đức Quốc Xã lên nắm quyền nhờ biết khai thác tâm lý bất mãn của người dân.[1] Tuy nước Đức thua cuộc nhưng về thương mại  công nghiệp họ không bị tổn hại gì lớn,[3] vì thế về những mặt này họ đã chiến thắng cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất.[19]

    Không một nước châu Âu nào thật sự chiến thắng cuộc chiến tranh này, tất cả đều chịu tổn hại nặng nề về người và của. Sau chiến tranh, châu Âu lâm vào tình trạng khủng hoảng và những cao trào chủ nghĩa dân tộc trỗi dậy ở các nước bại trận.[1] Điển hình là tại Thổ Nhĩ Kỳ, bão táp phong trào Cách mạng Giải phóng Dân tộc rầm rộ, đưa dân tộc này dần dần hồi phục, và buộc phe Hiệp Ước phải xóa bỏ những điều khoản khắc nghiệt sau khi cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất chấm dứt.[20][21] Nước duy nhất không bị tàn phá mà còn thu được lợi nhuận lớn từ cuộc chiến này là Hoa Kỳ, nó đã tạo điều kiện cho nước này vượt trên các nước châu Âu về kinh tế kể từ sau cuộc chiến.

    Trước đây ở các nước nói tiếng Anh dùng từ “Đại chiến” (Great War). Vài thập kỷ sau, tên gọi Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (World War I) mới được áp dụng để phân biệt với cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai.[22] Đương thời, nó còn được gọi với cái tên “Cuộc chiến tranh chấm dứt mọi cuộc chiến tranh” (The war to end all wars) bởi quy mô và sự tàn phá khủng khiếp nó gây ra.[23] Chính những vấn đề liên quan tới Hoà ước Versailles 1918 đã khiến cho cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ.[24]

    Bình luận

Viết một bình luận