câu 1:
trình bày những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc từ năm 1920 đến năm 1930. Theo em, công lao to lớn cũa lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đối với dân tộc Việt Nam là gì? tại sao?
câu2:
trình bày ý nghĩa lịch sữ và nguyên nhân thắng lợi cũa cuộc kháng chiến p (1945-1954). Theo em, trong những nguyên nhân ấy, nguyên nhân nào là quan trọng nhất? vì sao?
câu 3:
nêu những thắng lợi về mặt quân sự có tính chất quyết định cũa quân và dân ta ở 2 miền nam-bắc trong kháng chiến chống Mĩ (1954-1975).
B-lịch sử thế giới: (3 điễm)
trình bày sự phát triễn kinh tế cũa Nhật Bản sau chiến tranh thế giới thứ 2. cho biết những nguyên nhân cũa sự phát triển đó. Việt Nam có thễ rút ra được những kinh nghiệm gì từ Nhật Bản để vận dụng vào cong cuộc cong nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay?
c1
Ở châu Âu, các chính đảng tư sản xuất hiện khá sớm, từ cuối thế kỷ XVIII, trong thời kỳ Cách mạng tư sản Pháp 1789. Các đảng công nhân xuất hiện muộn hơn, phải trải qua giai đoạn đấu tranh từ tự phát đến tự giác, vượt qua thời kỳ “đồng côpếc đầm lầy” đến với mục tiêu, lý tưởng của chủ nghĩa xã hội khoa học, xây dựng chính đảng của giai cấp vô sản theo đúng những nguyên tắc về chính trị, tư tưởng, tổ chức của V.I.Lênin để trở thành một đảng mácxít kiểu mới,… đó là cả một quá trình lịch sử lâu dài, từ những năm 30 của thế kỷ XIX sang đầu thế kỷ XX.
Ở Việt Nam, theo nhận định của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, từ khi Pháp xâm lược, phong trào yêu nước của Việt Nam phát triển mạnh, nhưng “đó là một sự hỗn hợp giữa chủ nghĩa phản đế, chống công giáo và Cần Vương”, mà “không có một tổ chức nào như một đảng”. Đúng là trước khi Nguyễn Ái Quốc lập ra Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đầu năm 1925, ở Việt Nam chưa thật sự xuất hiện một tổ chức nào đáng gọi là một chính đảng theo đúng nghĩa của nó.
Năm 1905, sau khi Nhật thắng Nga, ở Việt Nam dấy lên phong trào Đông Du, tiếng là phong trào nhưng không có tổ chức(…). Khi Pháp – Nhật cấu kết với nhau trục xuất Phan Bội Châu và số học sinh Việt Nam ra khỏi nước Nhật, thì phong trào cũng tan.
Sau Cách mạng Tân Hợi 1911, Phan Bội Châu có lập ra Việt Nam Quang Phục hội (tháng 5-1912) với tôn chỉ “đánh đuổi giặc Pháp, khôi phục Việt Nam, kiến lập Việt Nam Cộng hòa dân quốc”. Nhưng như Phan Bội Châu đã tự thừa nhận: Hội “mới lọt lòng mẹ ra, mới thử một tiếng khóc thì đã biết triệu chứng là khó sống lâu rồi”.
Sau khi cụ Phan bị bắt vào ngục Quảng Đông, “hội viên bảy rơi, tám rụng, Quang Phục hội chỉ thành ra một bậc thần vị để tế ở trên bàn mà thôi”. Sau này, khi thấy phong trào đã nghiêng về xu hướng cách mạng thế giới, Phan Bội Châu dự định cải tổ Việt Nam Quang Phục hội thành Việt Nam Quốc dân Đảng theo mẫu của Tôn Trung Sơn, nhưng chưa kịp thực hiện thì ông đã bị bắt, đưa về Việt Nam.
Phan Chu Trinh đã viết: “Ngày nay, muốn độc lập, tự do, phải có đoàn thể,…” nhưng ông chỉ mới nói mà chưa làm. Còn Đảng Lập hiến (1923) thì như Nguyễn Ái Quốc nhận định “đó không phải là một đảng có tổ chức, mà đơn thuần, một vài nhà trí thức theo kiểu Pháp đặt tên đảng. Những thủ lĩnh của đảng này là những người theo quốc tịch Pháp”. Dù sao thì các đảng kiểu đó cũng không thể lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam đi đến thành công, bởi nó thiếu một đường lối chính trị và tổ chức đúng đắn, chặt chẽ, lại không có cơ sở rộng rãi trong quần chúng, thường chỉ có danh không có thực, nên sớm muộn cũng đều tan rã và thất bại.
Nguyễn Ái Quốc, ngay từ khi về Quảng Châu mở các lớp huấn luyện chính trị, đã đặt vấn đề: “Cách mệnh trước hết phải có cái gì?” và Người khẳng định: “Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công”.
Người chỉ ra tấm gương của cách mạng Nga: “Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách mệnh thành công thì phải dân chúng (công nông) làm gốc, phải có đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin”.
Như vậy, Nguyễn Ái Quốc không những là người Việt Nam đầu tiên nhận thức được tầm quan trọng và cần thiết phải có đảng lãnh đạo mà còn chỉ ra rằng, đảng đó phải là một đảng kiểu mới, tức là phải khác về chất so với các đảng, các hội chỉ tồn tại trên danh nghĩa trước đây. Sự khác biệt đó, như Người đã chỉ ra:
– Đó là Đảng phải biết lấy dân chúng công nông làm gốc, phải được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác – Lênin.
– Đảng đó phải được tổ chức chặt chẽ, bền vững, thống nhất, đảng viên của Đảng phải bền gan, phải hy sinh.
– Đảng phải biết tổ chức, vận động dân chúng trong nước làm cách mạng đồng thời biết liên lạc, đoàn kết với giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức trên thế giới.
Đảng ta do Nguyễn Ái Quốc sáng lập đầu năm 1930 chính là được xây dựng trên những nguyên tắc chỉ nam đó.
Thứ hai, Nguyễn Ái Quốc là người Việt Nam đầu tiên đã sớm khẳng định sứ mệnh lịch sử và vai trò cách mạng tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam.
(…) Nguyễn Ái Quốc sang phương Tây sau Phan Chu Trinh 2 tháng, nhưng không phải trong vai thân sĩ mà trong tư cách người công nhân lao động, từng bước tham gia các hoạt động chính trị – xã hội, đầu tiên gia nhập Công đoàn Lao động Hải ngoại ở Anh, rồi đến với phái tả của cách mạng Pháp, sớm trở thành một chiến sĩ xã hội chủ nghĩa, chiến đấu cho lợi ích của giai cấp công nhân và những người lao động.
Sau khi trở thành người cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã tìm hiểu và viết nhiều bài nghiên cứu về phong trào công nhân Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, Thổ Nhĩ Kỳ… từng bước nhận thức về vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân thế giới. Cuối năm 1922, được tin 600 thợ nhuộm Chợ Lớn quyết định bãi công, Nguyễn Ái Quốc coi đó là dấu hiệu chứng tỏ Việt Nam “giai cấp công nhân cũng bắt đầu giác ngộ về lực lượng và giá trị của mình”…
Theo Người, “những công nhân bản xứ khốn khổ kia, thường là rất ngoan ngoãn, dễ sai, dễ bảo, không được giáo dục và tổ chức, đã đi đến chỗ phải tập hợp nhau lại…” thì chúng ta phải “ghi lấy dấu hiệu đó của thời đại”, và nhiệm vụ của những người lao động ở chính quốc “không phải chỉ tỏ tình đoàn kết với những anh em cùng giai cấp ở đấy bằng lời nói, mà còn phải giác ngộ họ, giáo dục họ về ý thức tổ chức và về phương pháp tổ chức”.
Đảng Cộng sản Việt Nam do Nguyễn Ái Quốc sáng lập, ra đời là để gánh vác nhiệm vụ của lịch sử đó: giáo dục cho giai cấp công nhân về ý thức và phương pháp tổ chức, đúng như điểm 1 của Sách lược vắn tắt của Đảng, do Nguyễn Ái Quốc khởi thảo: “Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản, phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng”.
Đến đây, giai cấp công nhân Việt Nam, thông qua lãnh tụ và Đảng của mình, đã có sự chuyển biến từ tự phát đến tự giác, ngày càng được tôi luyện và trưởng thành qua đấu tranh: “Chỉ có giai cấp công nhân là dũng cảm nhất, cách mạng nhất, luôn luôn gan góc đương đầu với bọn đế quốc thực dân. Với lý luận cách mạng tiên phong và kinh nghiệm của phong trào vô sản quốc tế, giai cấp công nhân ta đã tỏ ra là người lãnh đạo xứng đáng nhất và đáng tin cậy nhất của nhân dân
c2
– Thắng lợi của cuộc kháng chiến đã chấm dứt ách thống trị gần một thế kỉ của thực dân Pháp.
– Miền Bắc hoàn toàn giải phóng, chuyển sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, tạo cơ sở để giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
– Giáng đòn nặng nề vào tham vọng xâm lược, âm mưu nô dịch của chủ nghĩa đế quốc sau Chiến tranh thế giới thứ hai, góp phần làm tan rã hệ thống thuộc địa của chúng.
– Cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.
+ Tinh thần đoàn kết chiến đấu của nhân dân ba nước Đông Dương.
+ Có sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ của Trung Quốc, Liên Xô và các nước dân chủ nhân dân, của nhân dân Pháp và loài người tiến bộ
+ Nhờ sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, với đường lối chính trị, quân sự và đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo.
+ Có hệ thống chính quyền dân chủ nhân dân trong cả nước, có Mặt trận dân tộc thống nhất được củng cố và mở rộng.
+ Lực lượng vũ trang ba thứ quân sớm được xây dựng và không ngừng lớn mạnh, hậu phương rộng lớn, vững chắc về mọi mặt.