Câu 1: Trong bài “Chiếu dời đô”, Hoàng đế Lý Thái Tổ đã xác định những lợi thế nào của đất Thăng Long?
a. Là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương.
b. Được thế rồng cuộn hổ ngồi.
c. Có núi cao sông dài.
d. Muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh.
Câu 2: Tòa thành cổ nhất trên đất Thủ đô là tòa thành nào?
a. Thành Đại La. b. Thành Cổ Loa.
c. Thành cổ Sơn Tây. d. Thành cổ Hà Nội.
Câu 3: Ngôi “Làng hai Vua” ở phía Tây Thủ đô – là quê hương của Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng và Ngô Vương Quyền, tên là gì?
a. Nhị Khê. b. Thủ Lệ. c. Hạ Lôi. d. Đường Lâm.
Câu 4: Năm 1010, Hoàng đế Lý Thái Tổ đã cho xây Tòa chính điện Càn Nguyên của Kinh đô Thăng Long ở trên cao điểm nào?
a. Núi Cung. b. Núi Nùng. c. Núi Khán. d. Núi Sưa.
Câu 5: Những công trình nào trong “Tứ đại khí” nước Đại Việt thời Lý – Trần đã được tạo tác ở Thăng Long?
a. Tháp Báo Thiên. b. Chuông Quy Điền.
c. Tượng Quỳnh Lâm. d. Vạc Phổ Minh.
Câu 6: Trong khu di tích Hoàng thành Thăng Long có những giá trị nổi bật toàn cầu nào?
a. Có tầng văn hóa khảo cổ học dầy và rộng nhất.
b. Là nơi diễn ra sự giao thoa văn hóa của phương Đông và thế giới.
c. Là trung tâm chính trị, văn hóa, trung tâm quyền lực quốc gia trong suốt thời kỳ dài.
d. Liên quan chặt chẽ với những sự kiện quan trọng và các giá trị biểu đạt văn hóa nghệ thuật của quá trình hình thành và phát triển quốc gia độc lập gần một thiên niên kỷ.
Phần II: Câu hỏi tự luận
Em viết một bài không quá 1000 từ (theo thể bình luận, nêu cảm nghĩ, cảm tưởng…) của em về về Tổng đốc thành Hà Nội Nguyễn Tri Phương.
C1. a. Là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương.
C2. b. Thành Cổ Loa.
C3. d. Đường Lâm.
C4. b. Núi Nùng
C5. a. Tháp Báo Thiên và b. Chuông Quy Điền.
C6. c. Là trung tâm chính trị, văn hóa, trung tâm quyền lực quốc gia trong suốt thời kỳ dài.
Phần II.
Sinh thời, khi nói về lòng yêu nước của dân tộc ta, chủ tịch Hồ Chí Minhđã viết rằng: “Dân tộc Việt Nam có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước” .
Nguyễn Tri Phương (1800-1873) sinh ra trong một gia đình vừa làm nông, vừa làm nghề thợ mộc, nhưng cũng là gia đình khá giả và có truyền thống Nho học. Theo Đại Nam liệt truyện, Nguyễn Tri Phương hồi nhỏ không học theo lối cử nghiệp (học để đi thi). Ông có đọc Thượng thư, Hiếu kinh, Luận ngữ, Tả truyện nhưng để là trích ra những lời nói hay, việc làm tốt để ghi chép lại mà học hỏi.
Nguyễn Tri Phương bước vào quan trường với vai trò thư ký phụ việc, rồi nhờ có học vấn nên dần được cất nhắc. Năm Minh Mạng thứ 16 (1835), ông được cử vào Gia Định hỏi han tình hình đánh giặc. Bấy giờ, quân triều đình đang bao vây phản quân Lê Văn Khôi trong thành Phiên An. Nguyễn Tri Phương nổi máu anh hùng, xin vua ở lại theo quân đánh giặc. Đó là lần đầu tiên ông bén duyên với con đường binh nghiệp. Con đường quan lộ của ông lúc thăng lúc trầm. Từ năm Thiệu Trị thứ nhất (1841), ông bắt đầu làm Hộ lí Tổng đốc An-Hà và bắt đầu có đóng góp nhiều về mặt quân sự. Từ năm 1841 đến năm 1847, Nguyễn Tri Phương đã bình định được các vụ nổi loạn do quân Xiêm bảo trợ ở Sóc Trăng, Trà Vinh, An Giang, Kiên Giang; đặt lại ảnh hưởng của Việt Nam ở Cao Miên và hòa giải cuộc xung đột quân sự dai dẳng với Xiêm từ thời vua Minh Mạng. Thời kỳ 1853-1858, Nguyễn Tri Phương với vai trò Kinh lược sứ Nam Kỳ đã đề xuất chiến lược đồn điền. Mặc dù có vô số ý kiến phản đối, Nguyễn Tri Phương vẫn kiên trì chính sách đó. Kết quả là hơn 100 làng đã được lập ra chỉ trong vài năm đầu và đồn điền chính là nơi sản sinh ra những Trương Định, Võ Duy Dương, Trần Văn Thành cho phong trào chống Pháp ở Nam Bộ.
Khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, Nguyễn Tri Phương đã lần lượt chỉ huy chiến sự trên mặt trận Đà Nẵng (1858-1860) rồi Gia Định (1860-1861). Sau đó, Nguyễn Tri Phương còn nhiều lần đánh dẹp thổ phỉ ở Bắc Kỳ, chiêu dụ được thổ phỉ Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc.
Cuộc đời của Nguyễn Tri Phương nổi bật nhất là con đường binh nghiệp, còn việc quản lý hành chính mỗi khi đảm nhiệm chức vụ quan văn ông thường phạm sai sót. Ấn tượng mà Nguyễn Tri Phương để lại là một con người nhiệt tình, gan dạ mà nóng nảy. Có lần đánh nhau với quân Xiêm, đạn bay rào rào, lính hầu xin ông hạ lọng xuống để giặc khỏi biết mà bắn. Nguyễn Tri Phương quát, bắt giương thêm hai lọng nữa, nhờ đó, sĩ khí tăng cao. Trong các trận đánh ở Chí Hòa (1861), Hà Nội (1873), Nguyễn Tri Phương đều có mặt ở tuyến đầu và cả hai lần ông đều bị thương nặng, lần đầu vì một mảnh đại bác và lần sau thì trúng mảnh trái phá ở bên hông. Ông bị bắt trong tình cảnh bị thương nặng “giữa lúc súng lục cầm tay và đang cố ngăn chặn sự tan vỡ của quân đội” (lời Mollet – một phụ tá người Pháp). Nếu phải so sánh, Nguyễn Tri Phương không phải là kiểu tướng linh hoạt, sáng tạo, dùng binh như thần kiểu như Chu Du, Gia Cát Lượng hay Tư Mã Ý. Nguyễn Tri Phương là loại tướng dũng mãnh, dùng binh tuân theo phép tắc kiểu như Quan Vũ, Trương Phi.
Trong việc đánh giá một con người mà nói, có ba điều đáng lưu ý: một là công trạng, hai là tài năng, ba là đức độ. Bàn về ba yếu tố đó rồi mới nói đến hạn chế, sai lầm và những việc chưa làm được. Sở dĩ đi theo trình tự này là bởi đời người ngắn ngủi, những việc làm được thì ít, mà những việc còn chưa xong thì rất nhiều. Mỗi con người sinh ra là sản phẩm của thời đại, được thời đại quy định, đào luyện và thử thách. Họ suy nghĩ và hành động phù hợp với điều kiện xã hội và tư tưởng trong thời kỳ mà họ sống. Họ cũng chỉ có thể làm được những điều mà khuôn khổ thời đại của họ, giai cấp của họ, tư tưởng của họ cho phép. Thời đại của Nguyễn Tri Phương là thời kỳ chế độ phong kiến triều Nguyễn đi từ cực thịnh đến suy tàn. Tương đương với hai thời kỳ đó là hai Nguyễn Tri Phương: một người có nhiều công trạng về quân sự, kinh tế lúc đầu – một người loay hoay, thất bại trong nhiệm vụ cứu nước lúc sau. Nếu nói Phan Thanh Giản là biểu tượng cho sự thất bại của giai cấp nho sĩ phong kiến thì Nguyễn Tri Phương là biểu tượng cho sự thất bại của giai cấp võ quan phong kiến trong nhiệm vụ cứu nước. Họ thất bại là bởi không thể vượt lên được xiềng xích của thời đại để có những suy nghĩ thiên tài, không đổi mới tư duy về quân sự, không thấy được con đường duy nhất là phải cải cách. Đó là hạn chế mà ta phải thừa nhận.
1a
2c
3a
4d
5b
6c