Câu 2 (5 điểm )
Cảm nhận về vẻ đẹp của người lính lái xe qua ba khổ thơ cuối trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm TIến Duật
Câu 2 (5 điểm )
Cảm nhận về vẻ đẹp của người lính lái xe qua ba khổ thơ cuối trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm TIến Duật
Trong chặng đường văn học giai đoạn 1945 – 1975, cùng với rất nhiều nhà thơ trẻ khác Phạm Tiến Duật cũng mạnh dạn góp ngòi bút của mình vào vườn thơ ca kháng chiến. Với bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” ông đã phần nào khẳng định tài năng, trách nhiệm của mình trước vận mệnh của dân tộc. Xuyên suốt bài thơ là hình ảnh của những chiếc xe không kính cùng phong thái ung dung ngang tàng của những người lính lái xe. Và khép lại bài thơ là ý chí bền bỉ chiến đấu giải phóng miền Nam thống nhất đất nước:
“Không có kính rồi xe không có đèn
…………………………..
Chỉ cần trong xe có một trái tim”
Lời thơ tựa như lời kể chuyện, kể thêm về cái khốn khó của một thời chiến đấu không thể nào quên. Với ngôn ngữ thơ mộc mạc giản dị, những mốc chiếc xe không chỉ không có kính mà còn hơn thế là:
“Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe thùng xe có xước”
Cùng với điệp ngữ “không có” cùng một loạt hình ảnh liệt kê “thùng xe, mui xe, đèn xe” giúp ta cảm nhận sâu sắc hơn cái ác liệt nơi chiến trường. Giờ đây, xe không chỉ không có kính mà xe còn không có đèn rồi lại không có mui xe, thùng xe thì bị xước trở nên biến dạng, xấu xí. Chiếc xe bỗng trở nên trần trụi và dị dạng hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, trái ngược với hình dạng không ưa nhìn của những chiếc xe là tâm hồn phơi phới dậy tương lai của những người lính lái xe:
“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước”
Dù cho ngoại cảnh có khốc liệt, vật chất có thiếu thốn như thế nào đi chăng nữa thì bánh xe vẫn lăn thẳng về miền Nam thân yêu. Phải chăng chính tình yêu Tổ quốc, tinh thần tự tôn dân tộc đã thôi thúc, động viên những người lính trẻ cầm chắc tay lái vượt qua rào cản khó khăn và với họ thì:
“Chỉ cần trong xe có một trái tim”
Dẫu có bao nhiêu gian khó thì cũng chỉ cần có “trái tim” là đủ. “Trái tim” nồng nàn yêu nước hay tinh thần lạc quan của người lính thì cũng vậy. Nó đã vượt lên cái khốn khó “không đèn, không kính, không mui xe, thùng xe xước” để hóa thành tinh thần lạc quan, ý chí quyết tâm giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Hình ảnh khép lại bài thơ lại có sức lan tỏa, làm sáng dậy một tình yêu đất nước sâu nặng. Mọi thứ có thể thiếu nhưng thứ duy nhất không thể mất đi chính là niềm tin vững vàng của người cầm lái. Chỉ có con người và chỉ có tình yêu mới có thể giúp cuộc kháng chiến của dân tộc thành công. Đến đây, câu thơ như đang biểu dương, ngợi ca những người lính lái xe, những anh bộ đội cụ Hồ.
Nếu như trong thơ của Chính Hữu, người lính trong kháng chiến chống Pháp xuất thân từ những miền quê nghèo khó nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc họ từ giã quê hương bước vào mặt trận, họ bước vào kháng chiến với muôn vàn khó khăn:
“Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”hay:“Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá”
thì khi đến với “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” ta lại bắt gặp một thế hệ trẻ bước vào kháng chiến với niềm vui và tinh thần lạc quan, họ được giác ngộ về lí tưởng Cách mạng, họ là những người lính có học thức cao hơn, ý thức hơn về trách nhiệm của mình với vận mệnh của dân tộc.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, những chiến sĩ lái xe trên tuyến Đường Trường Sơn đã đi vào văn học với tư cách là nhũng anh hùng. Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật là một trong những bài thơ hay viết về những chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn. Đặc biệt là ba khổ thơ cuối, đã cho ta thấy rõ đinh điểm của mạch cảm xúc và tứ thơ được nảy nở sáng rỏ, để lại ấn tượng trong lòng độc giả về cuộc chiến tranh ác liệ trên tuyến đường Trường Sơn và phẩm chất cao đẹp của người lính lái xe.
Từ những chiếc xe tải không kính trên tuyến đường Trường Son, ta vẫn thấy được tinh thần ung dung bình tĩnh, hiên ngang dũng cảm cùa người lính lái xe. Mỗi khổ thơ hiện lên một vẻ đẹp của người chiến sĩ. Bức chân dung đẹp ấy lại được khắc họa rõ nét qua tình cảm đồng chí, đồng đội nồng ấm và tình yêu Tổ quốc thiêng liêng cao cả, ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam. Ở ba khổ thơ cuối, chân dung, tâm hồn của người lính lái xe được gợi ra cũng chính từ hình ảnh những chiếc xe không có kính:
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiêu đội
Gặp bạn bè suốt dọc dường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
Từ trong khói lửa bom đạn, tức là từ trong ác liệt của chiến tranh nhưng người lính đã tập họp lại thành tiểu đội, thành đồng chí, bạn bè. vẫn lời thơ tự nhiên đầy cảm xúc, từ ngữ giản dị mà sâu sắc, khổ thơ đã khẳng định tình đồng đội được nảy sinh và hình thành khi cùng trải qua chiến tranh ác liệt. Các anh đã trải qua bom đạn của chiến tranh với tinh thần phơi phới. Trong bom đạn hiểm nguy, những chiếc xe không kính vừa thoát khỏi cái chết trong gang tấc giờ đây đã họp thành đội ngũ anh hùng: đội ngũ của những chiếc xe không kính. Họ là những con người từ bốn phương cùng chung lí tường chiến đấu, gặp nhau thành bạn bè. Với ngôn ngữ thơ giản dị nhưng chất thơ toát ra từ cảm xúc cùa tác giả giúp ta hình dung những chiếc xe không kính vẫn vưọt qua bom đạn băng băng ra tiền tuyến. Cái bắt tay qua cửa kính vỡ rồi là hình ảnh thơ đầy xúc động như tiếp thêm sức mạnh cho họ vượt qua mọi thử thách. Tình cảm người lính gắn bó như anh em trong một gia đình:
Bếp Hoàng cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đây
Võng mắc chông chênh trên đường xe chạy
Lại đi lại đi trời xanh thêm.
Ăn uống chung bát đũa như trong một gia đình. Rồi các anh lại cùng nhau lên đường lại đi, lại đi trời xanh thêm. Câu thơ bay bay phơi phới lãng mạn thật mộng mơ. Điệp ngữ lại đi là một sự khẳng dịnh, sự tự tin hướng về phía trước, hướng về Miền Nam với niềm lạc quan, yêu đời với tất cả lí tưởng giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Trời xanh là cái xanh của thiên nhiên, của sắc trời nhưng còn là màu xanh của hi vọng, màu xanh cùa tuối trẻ. Đoạn thơ nổi bật vì hình ảnh thơ độc đáo: những chiếc xe không có kính băng ra chiến trường. Hình ảnh thực này được diễn tả bằng hai câu thơ rất gần với câu văn xuôi, lại có giọng thản nhiên càng gây sự chú ý về vẻ khác lạ của nó. Bom đạn càng làm cho những chiếc xe ấy biến dạng thêm, trần trụi hơn nữa:
Không có kính rồi xe không có đèn
Không cỏ mui xe thùng xe cỏ xước.
Xe vẫn chạv vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Điệp từ không nhấn mạnh chiến tranh ngày càng khốc Hệt làm cho chiếc xe biến dạng đến trần trụi. Nhưng xe vẫn băng băng tiến về miền Nam. Tác giả sử dụng nghệ thuật tương phản giữa hoàn cảnh ác liệt của cuộc kháng chiến và phẩm chất cùa người lính lái xe, ý chí kiên cường của người chiến sĩ quyết tâm chiến thắng kẻ thù xâm lược. Hình ảnh hoán dụ một trái tim xuất hiện trong câu thơ thật gợi cảm, ta cảm nhận được cuộc sống vui tươi, tình yêu nước nồng nàn cháy bỏng. Cội nguồn sức mạnh của cả đoàn xe, gốc rễ anh hùng của mỗi người cầm lái tích tụ, kết đọng ở trải tim gan góc, kiên cường, chứa chan tình yêu nước này. Ẩn sau ý nghĩa câu thơ chi cần trong xe có một trái tim là chân lý của thời đại chúng ta: sức mạnh quyết định, chiến thắng không phải là vũ khí, công cụ mà là con người giàu ý chí, anh hùng, lạc quan, quyết thắng. Có thể cả bài thơ hay nhất là câu cuối, con mắt cùa thơ làm bật lên chủ đề, toả sáng vẻ đẹp của hình tượng nhân vật trong bài thơ.
Bài thơ về tiêu đội xe không kính nói chung và ba đoạn thơ cuối nói riêng là một thi phẩm đặc sắc tiêu biểu cho phong cách thơ Phạm Tiến Duật. Chất giọng trẻ, chất lính của bài thơ bắt nguồn từ tâm hồn phơi phới của thế hệ chiến sĩ Việt Nam một thói máu lửa mà chính nhà thơ đã sống, đã trài nghiệm. Từ sự giản dị của ngôn từ, sự sáng tạo của hình ảnh chi tiết, sự linh hoạt của nhạc điệu, đoạn thơ đã khắc hoạ, tôn vinh vẻ đẹp phẩm giá con người. Ba khổ cuối của bài thơ vẫn là hình ảnh những chiếc xe không có kính, xe bị biến dạng nhưng tinh thần người người thì luôn hướng tới miền Nam với những quyết tâm lớn lao. Xe phải đi, phải lao nhanh ra chiến trường, xe thẳng tiến để chi viện cho tiền tuyến miền Nam yêu dấu. Sự quyết tâm cùng với tấm lòng yêu nước của người lính trẻ đã để lại cho ta những cảm phục mến yêu. Với Ngôn từ, hình ảnh, vần thơ, giọng thơ… đều mang chất lính, thể hiện một hồn thơ trẻ trung phơi phới, tài hoa, anh hùng.
Ba khổ thơ cuối bài đã khép lại con đường tới miền Nam yêu dấu đã tới đích từ mấy chục năm trong sự thống nhất non sông. Nhưng đâu đây bên tai ta vẫn còn nghe tiếng xe chạy, vẫn hiển hiện những tiếng cười của những người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn. Bước sang thế kỉ XXI, trận đấu của mỗi người trẻ tuổi như chúng ta hoàn toàn khác. Nhưng những phẩm chất hào hùng, thật hấp dẫn ấy vẫn luôn là sự khích lệ, là sự nêu gương để mỗi chúng ta cố gắng hơn trong cuộc sống.