Cốt truyện và nhân vật của truyện truyền thuyết ” Yết Kiêu “

By Brielle

Cốt truyện và nhân vật của truyện truyền thuyết ” Yết Kiêu ”

0 bình luận về “Cốt truyện và nhân vật của truyện truyền thuyết ” Yết Kiêu “”

  1. Yết Kiêu là tướng nổi danh trong lịch sử dân tộc nhờ tài bơi lội. Hiện nay, nhiều tài liệu còn ghi truyền thuyết lý giải khả năng bơi lội của ông.

    Yết Kiêu là một trong những danh tướng của Trần Hưng Đạo, người có nhiều công lao trong các cuộc kháng chiến chống Mông – Nguyên.

    Người dân làng Hạ Bì (còn được gọi làng Quát), huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương (nay thuộc xã Yết Kiêu, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương) vẫn còn lưu truyền nhiều câu chuyện huyền bí về ông.

    Theo những giai thoại còn lưu truyền đến nay, Yết Kiêu có thể lặn liên tục 7 ngày 7 đêm. Dù chỉ là giai thoại, nó phần nào cho thấy người dân khâm phục tài năng của vị tướng tài ba này.

    Theo Gia phả của Yết Kiêu tại đền Quát, Yết Kiêu (1242-1301, có nguồn ghi 1303) tên thật Phạm Hữu Thế. Cha làm nghề đánh cá, mất khi ông 8 tuổi. Nhà nghèo nên từ nhỏ Phạm Hữu Thế phải lăn lộn sông nước kiếm sống.

    Theo một số tài liệu còn lưu giữ tại làng Hạ Bì, năm 15 tuổi, vào buổi sáng tinh mơ, Phạm Hữu Thế ra sông gánh nước. Trong cảnh sương mù mịt phủ khắp mặt sông, ông thấy hai con trâu trắng húc nhau, liền dùng đòn ống đánh đuổi, can ngăn.

    Hai con trâu biến mất, Hữu Thế thấy hai chiếc lông dính vào đòn ống. Khi đặt chúng xuống nước, ông thấy nước rẽ ra làm đôi. Cho đây là lông trâu thần, ông liền nuốt vào bụng. Từ đó, Phạm Hữu Thế có thân thể cường tráng, bơi lội tài giỏi, đi trong nước như trên đất bằng.

    Năm 1285, khi quân Nguyên ráo riết chuẩn bị xâm lược nước ta lần thứ hai, chàng thanh niên Phạm Hữu Thế lập tức lên đường tòng quân bảo vệ đất nước. Ông được nhà Trần tuyển vào thủy quân.

    Tương truyền, lúc bấy giờ, nhà Trần tổ chức hội thi tuyển chọn người tài ở Vạn Kiếp. Trần Ích Tắc (con vua Trần Thái Tông) có gia nô tên Đô Châu là đô vật nổi danh toàn vùng, không có đối thủ trong cuộc thi này. Khi giáp mặt Phạm Hữu Thế, Đô Châu đã thất bại “tâm phục, khẩu phục”.

    Sau hội thi đó, Phạm Hữu Thế được Trần Hưng Đạo mời làm gia nô và trở thành danh tướng thủy quân. Đồng thời, tên Yết Kiêu do Trần Hưng Đạo đặt theo tên loài cá kình ngư khổng lồ ở biển thời xưa.

    Dưới trướng của Trần Hưng Đạo, Yết Kiêu phát huy được tài năng bơi lội thần kỳ của mình. Ông có nhiều đóng góp trong cuộc kháng chiến chống Mông – Nguyên.

    Theo một số tài liệu, mỗi khi đêm xuống, Yết Kiêu dẫn quân lặn ở khu vực thuyền giặc neo đậu, nhẹ nhàng khoan đáy thuyền, lấy giẻ nút lỗ rồi dùng dây nối các nút với nhau. Chờ quân giặc ngủ say, Yết Kiêu ra lệnh giật dây nút lỗ, thuyền chìm dần. Mỗi đêm, ông đục thủng khoảng 30 chiến thuyền của địch.

    Có lần, ông không may bị địch bắt. Bằng trí thông minh và tài bơi lội, Yết Kiêu dụ địch thả ông ra rồi nhảy xuống nước trốn thoát.

    Sau khi cuộc kháng chiến chống quân Nguyên kết thúc, Yết Kiêu tiếp tục có nhiều đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Ông được vua Trần giao nhiệm vụ tháp tùng đoàn sứ bộ sang nhà Nguyên sau chiến tranh.

    Với những đóng góp to lớn đó, Yết Kiêu trở thành một trong những danh tiếng lẫy lừng bậc nhất xuyên suốt lịch sử dân tộc, trở thành biểu tượng của thủy quân nước ta và là niềm tự hào to lớn của quê hương, nơi ông được suy tôn là thành hoàng làng.

    Trả lời
  2. nhân vật chính yết kiêu mốt số thông tin của nhân vật

    Yết Kiêu tên thật là Phạm Hữu Thế, con ông Phạm Hữu Hiệu, người thôn Hạ Bì và bà Vũ Thị Duyên, người huyện Thanh Hà. Cha làm nghề chài lưới bên sông Quát, mẹ bán hàng nước ở bến đò. Cuộc sống bần hàn của một gia đình ngư dân nghèo khó và sớm mồ côi cha đã khiến Phạm Hữu Thế rất vất vả, phải chài lưới, cào hến giúp mẹ kiếm ăn ngay từ nhỏ. Cuộc sống trên sông nước đã khiến ông bơi lội rất giỏi. Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần hai và lần ba, Phạm Hữu Thế với tài bơi lội “nhập thuỷ như phúc bình địa hỹ” (đi dưới nước ung dung, tự tại như trên đất bằng) đã lập nhiều công lao lớn, được vua ban danh hiệu Trần triều đệ nhất đô soái thuỷ quân. Ông đã được nhân dân và vua quan nhà Trần gọi là Yết Kiêu (tên một loài cá lớn ngày xưa). 

    cốt chuyện

     

    Yết Kiêu tên thật là Phạm Hữu Thế, con ông Phạm Hữu Hiệu, người thôn Hạ Bì và bà Vũ Thị Duyên, người huyện Thanh Hà. Cha làm nghề chài lưới bên sông Quát, mẹ bán hàng nước ở bến đò. Cuộc sống bần hàn của một gia đình ngư dân nghèo khó và sớm mồ côi cha đã khiến Phạm Hữu Thế rất vất vả, phải chài lưới, cào hến giúp mẹ kiếm ăn ngay từ nhỏ. Cuộc sống trên sông nước đã khiến ông bơi lội rất giỏi. Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần hai và lần ba, Phạm Hữu Thế với tài bơi lội “nhập thuỷ như phúc bình địa hỹ” (đi dưới nước ung dung, tự tại như trên đất bằng) đã lập nhiều công lao lớn, được vua ban danh hiệu Trần triều đệ nhất đô soái thuỷ quân. Ông đã được nhân dân và vua quan nhà Trần gọi là Yết Kiêu (tên một loài cá lớn ngày xưa). 

     

    Trong dân gian, câu chuyện về danh tướng Yết Kiêu đã được truyền miệng lại qua nhiều đời, thể hiện sự ngưỡng mộ và biết ơn của nhân dân ta đối với vị tướng tài năng có công lớn với nước nhà.

     ***

     

    Ngày xưa có một người tên là Yết Kiêu ở làng Hạ-bì làm nghề đánh cá.

     

    Một hôm, ông ta đi dọc theo bờ biển về làng bỗng thấy trên bãi có hai con trâu đang ghì sừng húc nhau dưới bóng trăng khuya. Sẵn đòn ống, ông cầm xông lại phang mạnh mấy cái vào mình chúng nó. Tự dưng hai con trâu chạy xuống biển rồi biến mất. Ông rất kinh ngạc đoán biết là trâu thần. Khi nhìn lại đòn ống thì thấy có mấy cái lông trâu dính vào đấy. Ông mừng quá bỏ vào miệng nuốt đi

    Từ đó sức khỏe của Yết Kiêu vượt hẳn mọi người, không một ai dám đương địch. Đặc biệt là có tài lội nước. Mỗi lần ông lặn xuống biển bắt cá, người ta cứ tưởng như ông đi trên đất liền. Nhiều khi ông sống ở dưới nước luôn sáu bảy ngày mới lên.

     

    Hồi ấy có quân giặc ở nước ngoài sang cướp nước ta. Chúng cho một trăm chiếc tàu lớn tiến vào cửa biển Vạn-ninh vây bọc, bắt tất cả thuyền bè, đốt phá chài lưới. Đi đến đâu, chúng cướp của giết người gây tang tóc khắp mọi vùng duyên hải. Chiến thuyền nhà vua ra đối địch bị giặc đánh đắm mất cả. Nhà vua rất lo sợ, sai rao trong thiên hạ ai có cách gì lui được giặc dữ sẽ phong cho quyền cao chức trọng.

    Yết Kiêu bèn tìm đến tâu vua rằng: – “Tôi tuy tài hèn sức yếu nhưng cũng quyết cho lũ chúng nó vào bụng cá”. Vua hỏi: – “Nhà ngươi cần bao nhiêu người ? bao nhiêu thuyền bè?” – “Tâu bệ hạ – ông đáp – chỉ một mình tôi cũng có thể đương được với chúng nó”. Nhà vua mừng lắm, liền phong cho ông làm Đô thống cầm thủy quân đánh giặc.

     

    Ông đến Vạn-ninh cho quân sĩ nghỉ ngơi, chỉ bảo họ sắm cho mình một cái khoan, một cái búa. Đoạn, một mình ông lặn xuống đáy biển đi ra chỗ tàu giặc. Ông tìm đến đáy tàu vừa khoan, vừa đục. Ông làm rất lẹ và im lặng, tàu giặc cứ đắm hết chiếc này đến chiếc khác. Trong một hôm, chúng bị đắm luôn một lúc hơn hai mươi chiếc. Thấy thế, quân giặc hoảng loạn cả lên. Chúng sai những tên quân có tài bơi lặn lặn xuống nước do thám. Mấy tên quân đó tìm mãi mới thấy Yết Kiêu đang khoan một chiếc tàu. Bọn chúng xông lại nhưng chúng đâu có phải là địch thủ của ông, cho nên cuối cùng ông không để cho một đứa nào trở về.

     

    Quân giặc vô cùng sợ hãi. Mãi về sau tên tướng giặc đem một cái ống dòm thủy tinh có phép nhìn được thấu qua nước đến đáy biển. Chúng thấy ông đi lại thoăn thoắt như đi trên bộ. Chúng bèn đem cái vó bằng sắt nhân lúc ông đang mải đục một chiếc tàu, buông xuống chụp lấy ông. Nhờ thế chúng bắt sống được Yết Kiêu. Lập tức chúng tra khảo ông: – “Trong nước mày những người lặn như mày có bao nhiêu người?”. Ông bảo chúng: – “Không kể những người đi lại dưới nước suốt 10 ngày không lên, còn như hạng ta thì một trăm chiếc tàu của chúng bay cũng không thể chở hết. Hiện giờ ở dưới đó hết lớp này xuống lại lớp kia lên không mấy khi vắng người”. Nghe nói thế, bọn giặc kinh sợ cuối cùng chúng dỗ dành: – “Mày muốn tốt phải đưa chúng tao đi bắt sẽ có hậu thưởng, bằng không thì sẽ giết chết”. – “Được, theo ta, ta chỉ cho!”.

     

    Quân giặc tưởng thật, bắt ông cùng với mười tên quân đem vó sắt ngồi trên thuyền nhỏ ra biển dò tìm. Thừa lúc chúng vô ý, ông nhảy tòm xuống nước trốn đi. Chúng nó trông nhau ngơ ngác. Bấy giờ quân giặc đã bị thiệt hại khá nặng, lại nghe Yết Kiêu nói nước Nam có nhiều người tài lặn nên cuối cùng chúng đành phải quay tàu trở về không dám quấy nhiễu nữa.

     

    Nhà vua mừng quá, khen ngợi Yết Kiêu vô cùng, phong ông làm đại vương. Sau khi ông mất, mọi người nhớ ơn lập đền thờ ở cửa Vạn-ninh và ở nhiều cửa biển khác.

    SHCTGMING gửi bạn

    CHÚC HỌC TỐT…!!!

    Trả lời

Viết một bình luận