của môn GDQP???? các bạn học giỏi sử giúp mình với Em hãy nêu một số nét chính về sự hình thành và phát triển chiến thắng của quân đội nhân dân Việt Nam

của môn GDQP???? các bạn học giỏi sử giúp mình với
Em hãy nêu một số nét chính về sự hình thành và phát triển chiến thắng của quân đội nhân dân Việt Nam qua thời kỳ

0 bình luận về “của môn GDQP???? các bạn học giỏi sử giúp mình với Em hãy nêu một số nét chính về sự hình thành và phát triển chiến thắng của quân đội nhân dân Việt Nam”

  1. Tên gọi “Quân đội nhân dân” là do Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt với ý nghĩa “từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, vì nhân dân phục vụ”. Quân đội nhân dân Việt Nam thường được viết tắt là Quân đội nhân dân hoặc Quân đội nhân dân Việt Nam. Việc lấy tên là “Quân đội nhân dân” với mục đích thể hiện đây là đội quân có nguồn gốc nhân dân, bảo vệ tính mạng, tài sản và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ nền độc lập thống nhất và bản sắc dân tộc. 

    Khẩu hiệu của Quân đội nhân dân Việt Nam là:

    Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội; nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng

    Ngày 22 tháng 12 năm 1944, thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân theo chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh

    Ngày 15 tháng 5 năm 1945, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân sáp nhập với lực lượng Cứu Quốc quân và đổi tên thành Giải phóng quân, trở thành lực lượng quân sự chủ yếu của Mặt trận Việt Minh thực hiện thành công cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945

    Từ năm 1945 đến năm 1954 là thời kỳ phát triển vượt bậc cả về số lượng và khả năng chiến đấu. Giải phóng quân đã phát triển từ một đội quân nhỏ trở thành Quân đội Quốc gia Việt Nam với quân số khoảng 50.000 người, tổ chức thành 40 chi đội.

    Năm 1950, Quân đội Quốc gia Việt Nam đổi tên thành Quân đội nhân dân Việt Nam. Sau đó, thành lập các đại đoàn 308, 304, 312, 320, 316, 325, 351 và giành Chiến thắng Điện Biên Phủ trước Thực dân Pháp ngày 7 tháng 5 năm 1954.

    Ngày 15 tháng 2 năm 1961, Quân Giải phóng miền Nam được thành lập. Quân đội ta đã tiến hành chiến tranh toàn dân, toàn diện, lâu dài và gian khổ, tiêu biểu là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1968, chống chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân của Mỹ ở miền Bắc mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ trên không tháng 12 năm 1972; kết thúc thắng lợi bằng chiến dịch Hồ Chí Minh vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.

    Ngày 23 tháng 12 năm 1978, mở cuộc phản công chiến lược, đập tan cuộc tiến công của Quân đội Pônpốt. Sau đó đã phối hợp với các lực lượng vũ trang Cămpuchia, đánh tan 21 sư đoàn quân Pônpốt, xoá bỏ chế độ diệt chủng tàn bạo.

    Từ đó đến nay, Quân đội nhân dân Việt Nam đã thực hiện nhiều đợt điều chỉnh biên chế, tổ chức, cắt giảm quân số. Hiện nay, lực lượng thường trực gồm bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương với tổng quân số khoảng nửa triệu người và lực lượng quân dự bị khoảng 5 triệu người.[13]

    Đánh giá của đối phương

    Trung tá Pháp Marcel Bigeard (sau này là Bộ trưởng Quốc phòng Pháp), đã có kinh nghiệm 9 năm chiến đấu ở Đông Dương, tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ từ lúc xây dựng cứ điểm cho đến khi đầu hàng, đã bày tỏ sự kính trọng của mình đối với Quân đội nhân dân Việt Nam: “Tôi đã thấy họ khởi sự từ những khẩu súng bất kỳ như súng săn và sau đó, tháng này qua tháng khác, họ được tổ chức thành những nhóm nhỏ, rồi từ các nhóm nhỏ thành trung đội, từ các trung đội lên đại đội, từ đại đội lên tiểu đoàn  lữ đoàn và cuối cùng là thành các sư đoàn đủ quân. Tôi đã thấy tất cả những điều này và tôi có thể nói với các vị rằng họ đã trở thành những người lính bộ binh vĩ đại nhất trên thế giới. Những người lính dẻo dai này có thể đi bộ 50 km trong đêm tối bằng sức của một bát cơm, trên những đôi giày ba-ta và hát vang trên đường ra trận. Theo quan điểm của tôi, họ đã trở thành những người lính bộ binh ngoại hạng và họ đã đánh bại được chúng ta (quân đội Pháp)”.

    Thiếu tá đặc nhiệm Mỹ Charles A. Beckwith, từng tham gia chiến tranh Triều Tiên rồi sau đó tiếp tục sang Việt Nam tham chiến, đã ca ngợi Quân đội nhân dân Việt Nam: “Tôi sẵn sàng đánh đổi mọi thứ để có được 200 người lính như họ. Họ là những người lính giỏi nhất mà tôi từng thấy. Họ tận tâm và thuộc loại cừ khôi. Tôi chưa từng thấy lính nào giỏi như họ.

    Tướng Lindsey Kiang là một nhà sử học Mỹ có nhiều năm công tác tại Việt Nam. Ông nhận xét: Trong mắt nhiều lính Mỹ, bộ đội Việt Nam là những người có kỷ luật, chiến đấu thông minh và rất gan dạ. Ông nói

    Tất cả những điều tôi đọc, tôi nghe được từ họ đều toát lên một sự tôn trọng dành cho các cựu chiến binh Việt Nam, bất kể đó là Giải phóng quân của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam hay quân chính quy từ miền Bắc vào. Những nhận xét đó thường là: Bộ đội Việt Nam thông minh, tiết tháo, có kỹ năng và lòng quyết tâm. Họ cũng là những người dũng cảm tuyệt vời trước hỏa lực khủng khiếp của pháo binh và không quân Mỹ. Nhiều cựu chiến binh Mỹ thường nhắc lại với niềm cảm phục sâu sắc khả năng chống đỡ của đối thủ dưới làn đạn mà những trận rải thảm B-52 là ví dụ điển hình.Miền Trung Việt Nam là nơi những đội quân tinh nhuệ nhất của quân đội Mỹ đối đầu với quân chính quy từ miền Bắc Việt Nam… một trung sĩ lính thủy đánh bộ nói với bạn tôi rằng: “Thưa ngài, lính Bắc Việt Nam đánh giỏi như chúng ta”. Nên biết rằng, lính thủy đánh bộ Mỹ là những chiến binh ưu tú nhất, được chọn từ bộ binh sang. Đó quả là một lời khen ngợi đối thủ. “Họ rất dũng cảm, rèn luyện tốt và có tinh thần chiến đấu cao” – Anh ấy nói.

    Tướng Merrill McPeak, Tham mưu trưởng Không quân Mỹ, từng là phi công chiến đấu ở Việt Nam. Trong phim “The Vietnam War”, ông kể lại: bằng phương tiện quan sát hiện đại gắn trên máy bay, ông ta có thể săn lùng những chiếc xe vận tải của Việt Nam như săn thỏ. Nhưng bắn nhiều rocket, thả nhiều bom đến như vậy, nhưng không lực Mỹ vẫn không tài nào ngăn nổi sự vận chuyển trên đường Trường Sơn. Cho đến nay, Merrill McPeek nói rằng ông vẫn ức tới nghẹn cổ, và kết luận: Ông đã ủng hộ nhầm phe, nếu có thể được thì ngày ấy ông nên chiến đấu cùng đội ngũ với các chiến sỹ can trường, quả cảm ở bên phía Việt Nam

    Trong một cuộc khảo sát sau cuộc chiến với các sĩ quan Hoa Kỳ từng phục vụ trong chiến tranh Việt Nam, 44% đánh giá Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam là “thiện chiến và gan góc”. Một sĩ quan nhận xét “Có một khuynh hướng đánh giá thấp đối thủ. Trong thực tế, họ là địch thủ giỏi nhất mà chúng ta (quân đội Mỹ) từng phải đối mặt trong lịch sử”.

    Quân đội nhân dân Việt Nam đã chiến đấu liên tục từ 1944 đến 1989 với 5 trong số các cường quốc trên thế giới bao gồm Anh, Pháp, Hoa Kỳ, Nhật Bản và Trung Quốc:

    • Chiến tranh thế giới thứ hai (Chống lại sự chiếm đóng của Đế quốc Pháp  Đế quốc Nhật Bản tại Việt Nam và Đông Dương)
    • Chiến tranh Thái Bình Dương (Chống lại sự xâm lược của Đế quốc Nhật Bản tại Việt Nam và Đông Dương)
    • Nam Bộ kháng chiến (Chống quân đội Anh, Pháp, Nhật đóng quân tại Nam Bộ)
    • Kháng chiến chống Pháp (Chống lại Cộng hòa Pháp và các đồng minh tại 3 nước Đông Dương)
    • Chiến tranh Việt Nam (Chống lại Quân đội Hoa Kỳ và các đồng minh khác tại 3 nước Đông Dương)
    • Nội chiến Campuchia (Hỗ trợ lực lượng Khmer Đỏ chống lại chính phủ Cộng hòa Khmer được hậu thuẫn bởi Hoa Kỳ)
    • Nội chiến Lào (Hỗ trợ lực lượng Pathet Lào chống lại chính phủ Vương quốc Lào được hậu thuẫn bởi Pháp và Hoa Kỳ)
    • Chiến tranh biên giới Việt Nam-Campuchia (Chống lại lực lượng diệt chủng Khmer Đỏ được hậu thuẫn bởi Trung Quốc)
    • Chiến tranh biên giới Việt Nam-Trung Quốc (Chống lại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa)
    • Xung đột biên giới Việt Nam-Trung Quốc 1979-1990 (Chống lại sự xâm lấn biên giới của Cộng Hòa Nhân dân Trung Hoa)
    • Xung đột Thái Lan-Việt Nam 1982-1988 (Chống lại Vương quốc Thái Lan  Khmer Đỏ)
    • Chiến tranh biên giới Lào-Thái Lan (Chống lại Vương Quốc Thái Lan xâm lược Lào bảo vệ đồng minh Cộng Hòa Dân chủ Nhân dân Lào)
    • Xung đột năm 1997 tại Campuchia (Chống lại Khmer Đỏ và bảo vệ đồng minh Vương Quốc Campuchia)
    • Xung đột tại Lào, xung đột tại Lào từ năm 1975 (Chống lại người Hmong nổi dậy và bảo vệ đồng minh Cộng Hòa Dân chủ Nhân dân Lào)

    Trong các cuộc chiến tranh, Quân đội nhân dân Việt Nam đã tiêu diệt, bắt làm tù binh hoặc làm tan rã hơn 3,8 triệu quân địch (khoảng 500.000 quân địch trong kháng chiến chống Pháp, khoảng 3 triệu quân địch trong kháng chiến chống Mỹ, 300.000 quân địch trong 2 cuộc chiến tranh biên giới); bắn rơi, phá hủy hoặc thu giữ 13.000 máy bay các loại (gần 500 máy bay của Pháp và 12.500 máy bay của Mỹ); phá hủy hoặc thu giữ hàng vạn xe tăng – xe thiết giáp và xe cơ giới, vài nghìn khẩu đại bác/súng cối cùng hàng trăm tàu xuồng các loại của đối phương.

    Theo tài liệu thống kê của cổng thông tin điện tử ngành chính sách quân đội – Cục chính sách – Tổng cục Chính trị – Bộ Quốc phòng thì đến năm 2012, toàn quốc có 1.146.250 liệt sĩ và khoảng 600.000 thương binh, trong đó có 191.605 liệt sỹ hy sinh trong kháng chiến chống Pháp, 849.018 liệt sĩ hy sinh trong kháng chiến chống Mỹ, số còn lại hy sinh trong các cuộc chiến tranh khác, hoặc hy sinh khi thực hiện nhiệm vụ trong thời bình[19]

    Tính tới năm 2012, cả nước có 9.637 công trình ghi công Liệt sĩ trên cả nước (nghĩa trang, đài tưởng niệm, đền thờ). Tỉnh có nhiều liệt sĩ nhất cả nước là Quảng Nam với 65.000 liệt sĩ (ngoài ra tỉnh Quảng Nam còn có hơn 30.000 thương binh). Huyện có nhiều liệt sỹ nhất cả nước là huyện Điện Bàn (cũng thuộc tỉnh Quảng Nam) với hơn 19.800 liệt sĩ[20][21]

    Các trận đánh/chiến dịch quan trọng

    • Cách mạng tháng Tám
    • Trận Hà Nội 1946
    • Chiến dịch Việt Bắc 1947
    • Chiến dịch Cao – Bắc – Lạng 1949
    • Chiến dịch Biên giới 1950
    • Chiến dịch Hoàng Hoa Thám (Chiến dịch đường 18) 1951
    • Chiến dịch Hòa Bình 1952
    • Chiến dịch Tây Bắc 1952
    • Chiến dịch Điện Biên Phủ 1954 (chiến thắng quyết định trong Chiến tranh Đông Dương)
    • Trận Ấp Bắc 1963
    • Chiến dịch Bình Giã cuối 1964 đầu 1965
    • Chiến dịch đánh bại cuộc hành quân Junction City 1967
    • Tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968
    • Chiến dịch đường 9 – Khe Sanh 1968
    • Chiến dịch đường 9 – Nam Lào 1971
    • Chiến dịch Xuân hè 1972
    • Trận cầu Hàm Rồng
    • Chiến dịch phòng không Hà Nội – Hải Phòng (trận Điện Biên Phủ trên không) 1972
    • Chiến dịch Tây Nguyên 1975
    • Chiến dịch Hồ Chí Minh 1975 (hoàn thành Kháng chiến chống Mỹ cứu nước)
    • Chiến tranh biên giới Tây Nam 1978-1979 (Chiến tranh Việt Nam-Campuchia)
    • Chiến tranh biên giới Việt – Trung, 1979
    • Xung đột biên giới Việt Nam-Trung Quốc 1979-1990
    • Giao tranh tại biên giới Thái Lan
    • Hải chiến Trường Sa 1988
    • Giao tranh biên giới Lào-Thái Lan

    Bình luận

Viết một bình luận