Phải thấy cả đầu, mới rõ đầu đuôi. Trước khi ôn việc làm của các chúa Nguyễn, phải ôn sự nghiệp mở nước của các triều đại xưa.
Chiêm Thành từng cường thịnh ngang ngửa với Đại Việt. Cuối đời Đinh, nhân nước ta có nội biến, quân Chiêm đã định ra đánh úp kinh đô Hoa Lư! (ĐDA-1). Chiêm Thành là một vấn đề to đến nỗi sau đó, triều đại nào cũng có vua phải ngự giá thân chinh phương Nam: Lê Hoàn, Lý Thái Tôn, Lý Thánh Tôn, Trần Thái Tôn, Trần Anh Tôn, Trần Duệ Tôn, Lê Thánh Tôn. Đại tướng như Lý Thường Kiệt cầm quân ra trận thì không kể. Và không phải cứ đi đánh là thắng, mà có thể thua to đến nỗi chết cả vua (Trần Duệ Tôn)! Cũng không phải là chỉ có ta vào đánh Chiêm, mà Chiêm cũng ra đánh ta, trước sau xâm phạm bờ cõi Việt 43 lần! (TNT). Mới hồi thế kỷ XIV, Chế Bồng Nga đã “ra vào nước Nam ta như đi vào chỗ không người”, ba lần đốt phá Thăng Long (TTK). Năm 1470, Lê Thánh Tôn mang 26 vạn quân Nam chinh đại thắng, mở đất dứt khoát đến đèo Cù Mông và chia phần còn lại của Chiêm Thành thành ba “nước” rất nhỏ (ĐDA-1). Từ đây, vương quốc kình địch một thời của ta chỉ là ba cái bóng mờ đợi tan!
Việc bành trướng tiếp theo của các chúa Nguyễn cơ bản là thực hiện kế sách “tằm ăn dâu”, “dân đi trước, làng nước theo sau”, rồi quân theo vào đàn áp kháng chiến yếu ớt, chính thức hóa việc lấn đất, làm công tác bình định, chứ hoàn toàn không phải dùng đến vũ lực to lớn như các thời trước. Năm 1611, Nguyễn Hoàng cho quân chiếm nước Hoa Anh mở vùng đất bây giờ là tỉnh Phú Yên. Đến năm 1697 thì ta lấy xong toàn bộ Chiêm Thành.
Việc mở Nam bộ hoàn thành năm 1759, và diễn tiến đại khái cũng như trên, tức nặng về phát triển kinh tế hơn hẳn chinh phục quân sự. Sở dĩ tránh được dụng binh qui mô trong đợt Nam tiến chót này, ấy là nhờ ta đã gặp ba cái may mắn thật là đặc biệt.
Cái may thứ nhất là nước Chân Lạp đang mạt vận. Hoàng tộc lủng củng nội bộ hết sức nặng nề, đua nhau rước quân Việt vào giúp giành ngôi báu, kẻ được ngôi cắt đất làm quà tạ chúa Nguyễn. Ta có thể can thiệp rất dễ dàng, bởi binh lực Chân Lạp bấy giờ vô cùng suy nhược, có lần chỉ dùng 3.000 quân cũng bắt được vua! Do quân Xiêm cũng vào can thiệp, ta nhiều lần đụng độ với Xiêm, nhưng không trên một qui mô gần so sánh được với chiến sự Đại Việt – Chiêm Thành trước kia.
Cái may thứ hai là Thủy Chân Lạp (tức Nam bộ) là đất tương đối kém giá trị đối với Chân Lạp, do đó mới bị cắt làm quà dễ dàng. Vì một số lý do lịch sử và địa lý, tuy sau khi Phù Nam diệt vong thì chính thức thuộc về Chân Lạp nhưng đất ấy rút cuộc chưa bao giờ có nhiều người Chân Lạp ở và việc khai thác tài nguyên cũng hạn chế nên không trở thành một nguồn lợi quan trọng. Người Chân Lạp sống đông nhất ở vùng Ba Thắc (Sóc Trăng), Cần Thơ, Trà Vinh, nhưng họ chọn ở “trên đất giồng cao ráo” chứ không lao xuống sình lầy mênh mông để khai khẩn cho thành ruộng vườn (SN), và dân số tổng cộng cũng không bao nhiêu: “Khi lưu dân Việt và vong thần người Hoa đến đây vào thế kỷ XVII (thì miền Tây) là vùng đất hoang (chỉ có) một số ít người Khmer lưu trú” (HVT). Nhờ họ “để dành” cái công khai phá vỡ hoang lại cho tổ tiên ta, mà Sơn Nam mới có “chuyện” để viết nên Lịch sử khẩn hoang miền Nam!
Cái may thứ ba trong việc mở Nam bộ tình cờ vừa được nhắc tới trong câu văn trích trên. Nhờ một số quan nhà Minh không chấp nhận triều Thanh, bỏ Trung Quốc chạy xa xuống phía Nam lập nghiệp, mà kinh tế ở một số địa phương thuộc Thủy Chân Lạp đã sớm phát triển. Những địa phương này rồi được dâng cả cho chúa Nguyễn. Tự dưng có người Tàu bên Tàu chạy qua đất của Chân Lạp bỏ công của ra mở mang, xong đem hiến cho Việt Nam, chẳng tuyệt vời sao!
Tội diệt văn hóa Việt Nam của các Chúa Nguyễn
Nước thì phải có văn hóa riêng mới đáng là nước. Đáng giữ khi bị người ta chực lấy, đáng giành lại khi bị lấy mất. Tự hào văn hóa trước các chúa Nguyễn đã tiềm tàng trong câu thơ Lý Thường Kiệt, hiển hiện trong Bình Ngô đại cáo, sau các chúa Nguyễn lại hiển hiện trong lời hịch kêu gọi đánh quân Thanh của vua Quang Trung, “Lời kêu gọi Hội Quốc Liên” (1926) của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Riêng các chúa Nguyễn thiếu tự hào đến mức đã tiến hành tiêu diệt văn hóa Việt Nam!
Tội tày đình bắt đầu với Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát: “Vào khoảng năm 1744, chúa Võ Vương bắt (…) cải cách y phục (…) theo lối quần áo của người Tàu” (ĐDA-2). Cụ thể, “buộc quan dân phải ăn mặc theo sách Tam tài đồ hội (…) là bộ bách khoa từ điển bằng tranh, xuất bản đời Minh”! (TGC). Dân tự ý bắt chước là một chuyện. Người cai trị bắt dân bắt chước là một chuyện khác, hình như độc đáo trong lịch sử thế giới!
Cái gì đã xui Võ Vương làm chuyện không giống ai? Để ý tới Nguyễn Phúc Khoát thì họ Nguyễn mới xưng chúa. Xưng cho bằng Trịnh. Xưng xong liền cố làm cho văn hóa Đàng Trong khác Đàng Ngoài. Nhưng đó mới là một động cơ. Động cơ nữa là tình cảm quý trọng đặc biệt dành cho người Tàu. Cái nhận xét của Sơn Nam: “Huê kiều (…) là hậu thuẫn kinh tế cho Nguyễn Ánh”, nó đúng cho toàn thể Đàng Trong và từ trước Nguyễn Ánh. Chúa Đàng Trong kỵ Đàng Ngoài quý Huê đã khiến dân Đàng Trong phải cởi váy mặc quần!
Năm 1776, Trịnh thắng Nguyễn, Lê Quý Đôn vào tham gia tiếp quản Thuận Hóa, có viết kể: “Tôi được sai làm Tham thị quân vụ (…) giúp việc (cho) trấn phủ (…) Vào đến nơi thì (thấy) quan dân (Ðàng Trong) ăn mặc lạ kiểu (…) Tôi cùng đồng liêu (quyết định) đổi bỏ lối ăn mặc dị dạng để theo chế độ quốc triều” (LQĐ).
Nhưng bể dâu chưa dứt, rút cuộc họ Nguyễn lại được nắm quyền cai trị nước mà tiếp tục thực hiện chủ trương Hoa hóa của mình.
Bốn tội to của Nguyễn Ánh
Sự nghiệp của Nguyễn Ánh có thể tóm lại bằng ba chữ: chống Tây Sơn. Vậy Tây Sơn là thế nào?
Trong Việt Nam sử lược, Trần Trọng Kim viết: “Anh em (Tây Sơn) đối với họ Nguyễn là cừu địch, nhưng mà đối với nước Nam, thì chẳng qua cũng là (…) anh hùng lập thân trong lúc biến loạn đó mà thôi (…) Vua Chiêu Thống (…) đi sang kêu cầu bên Tàu (…) nước Nam ta, bề ngoài tuy chưa mất hẳn, nhưng kỳ thật đã vào tay người Tàu rồi (…) Nước đã mất, thì phải lấy nước lại, ông Nguyễn Huệ mới lên ngôi hoàng đế (…) đánh một trận phá 20 vạn quân Tàu (…) Tưởng từ xưa đến nay nước ta chưa có võ công nào lẫm liệt như vậy”. Còn Hoàng Xuân Hãn thì nhận định: “Quang Trung (…) Cái công đánh bạt Tôn Sĩ Nghị ở Thăng Long, cái công ấy rất to. Bởi vì nếu Tôn Sĩ Nghị không thua, để cho nhà Lê tiếp tục thì tự nhiên nhà Lê sẽ ở dưới quyền vua Thanh. Cái đó chắc chắn (…) Công ấy rất to” (HXH).
Tây Sơn là thế. Tuy vậy, khi đất nước chưa yên thì Nguyễn Ánh, hay bất cứ ai, vẫn có quyền tranh giành ngôi báu với Tây Sơn. Có điều, tuyệt đối không được “cõng rắn cắn gà nhà”. Nguyễn Ánh trước cõng rắn Xiêm sau cõng rắn Pháp, hai tội này ai nấy đều đã biết. Nhưng còn hai tội rất to nữa mọi người cũng cần phải biết.
Tội thứ ba, Việt Nam sử lược ghi: “(Năm 1817) tàu binh (…) của nước Pháp vào cửa Đà Nẵng. Quan thuyền trưởng (…) nói rằng Pháp Hoàng Louis XVIII sai sang xin thi hành những điều ước do Bá Đa Lộc ký năm 1787 về việc nhường cửa Đà Nẵng và đảo Côn Lôn. Vua Thế Tổ sai quan ra trả lời rằng những điều ước ấy nước Pháp trước đã không thi hành thì nay bỏ, không nói đến nữa”. Vậy là Nguyễn Ánh đã chấp nhận cắt đất làm quà tạ cho Pháp!
Tội thứ tư được Tạ Chí Đại Trường dẫn chính Đại Nam thực lục mà nêu: “(Nguyễn Ánh) nghe quân Thanh đánh Tây Sơn, sai Phạm Văn Trọng đem thư đi Quảng Đông và lấy 50 vạn cân gạo giúp. Ghe bị chìm” (TCĐT). Đây là tội nghiêm trọng nhất. Bởi giúp Thanh đánh Tây Sơn tức là mong Thanh thắng, là chấp nhận Bắc thuộc, là hành động phản quốc!!! Tại sao Nguyễn Ánh phản quốc? Vì chống Tây Sơn đã đành. Nhưng còn vì cái truyền thống sùng bái Trung Quốc của dòng họ mình nữa. Từ tự đồng hóa với người đến chấp nhận nước mình hóa thành một phần của nước người, đâu có xa! Hiển nhiên đối với Nguyễn Ánh, làm chúa Đàng Trong hay làm quan cai trị nửa phía Nam của lãnh thổ mới mở của Tàu, cũng vậy thôi!
Nguyễn Ánh đã thống nhất đất nước. Nhưng do bốn cái tội to vừa kể, việc này nên được ghi nhận như một sự kiện, thay vì một công.
Tội của vua Minh Mạng
Vua Minh Mạng đã tiếp tục sự nghiệp tiêu diệt văn hóa dân tộc bắt đầu bởi Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát. Năm 1828, vua xuống chiếu bắt dân Đàng Ngoài phải thay đổi cách ăn mặc cho giống dân Đàng Trong. Năm 1837, lại xuống chiếu nữa: “Trẫm đã ra lệnh đổi y phục như từ Quảng Bình trở vào để phong tục thuần nhất. Lại ban hạn rộng rãi để ai nấy có thì giờ khâu may. Nhưng đến nay, kể đã ngoài 10 năm, mà ở Đàng Ngoài (…) chưa chịu đổi thay. Từ Quảng Bình trở vào Nam, hết thảy đã ăn mặc theo lối nhà Hán, nhà Minh, mũ mãng, áo quần (…) chỉnh tề, tươm tất. Dân Bắc kỳ cứ ăn mặc theo lối cũ (…) đàn bà, con gái mặc áo vạt khép vào nhau, dưới thì mặc váy (…) Nay truyền cho các viên tổng đốc, tuần phủ, bố chánh, án sát các tỉnh (…) ban hạn trong năm nay tất cả phải thay đổi (…) Nếu năm tới còn có kẻ nào ngoan cố áo quần, phải trị tội thật nặng” (ĐĐN).
Cái kẻ đáng “trị tội thật nặng” chính là kẻ làm vua nước Việt Nam mà lại đi cưỡng bách dân tộc Việt Nam đồng hóa với ngoại nhân!!! Nhưng “phép vua thua lệ làng”, bất kể hai cái “chiếu” của vua Minh Mạng, thứ trang phục “vừa bằng cái thúng mà thủng hai đầu, bên ta thì có, bên Tàu thì không” nó vẫn cứ tiếp tục còn nơi đất Bắc để hàng thế kỷ sau các liền chị ở Bắc Ninh mặc đi hát quan họ cho Hoàng Cầm trầm trồ tấm tắc “cái váy lụa mềm óng buông chùng cửa võng xuống đến mu bàn chân, nhìn đằng trước tưởng là các cô đang đi lướt trên sóng lượn rập rờn” (HC).
Và ngay ở Đàng Trong, cũng hàng thế kỷ sau, tuy trang phục dân gian khác với ngoài Bắc nhưng rõ ràng không phải là lối Tàu. Tức dân chúng Đàng Trong đã lặng lẽ chống lại lệnh đồng hóa của vua chúa Nguyễn mà sáng kiến ra trang phục Việt Nam mới. Văn hóa ăn mặc Đàng Trong có bản sắc riêng là nhờ nhân dân và bất chấp vua Nguyễn!
(Chủ trương Hoa hóa không thành công hẳn cũng có vì giặc Pháp qua khiến việc nước rối ren, rồi vua hóa bù nhìn.)
Tội của các vua tự Đức, Khải Định, Bảo Đại
Quyết định bác bỏ canh tân của vua Tự Đức chắc chắn có gốc ở tình hình bên Tàu: “Từ khi nhà Thanh lên (…) bế quan chủ nghĩa đã được thực hành đáo để (…) Triều đình (…) chỉ biết câu thủ nề nếp cũ, không dám có chút biến thông” (ĐDA-4). Nhà Thanh đưa Trung Quốc vào dưới gót liệt cường. Tự Đức theo Thanh khiến Việt Nam phải làm con nước Pháp!
Tự Đức còn được nhớ vì câu ca dao “Vạn Niên là Vạn Niên nào / Thành xây xương lính, hào đào máu dân”. Xây lăng qui mô đến nỗi dân làm loạn (“giặc Chày Vôi”), đó cũng là do bắt chước Tàu đấy! Các vua Lý, Trần dù có công lớn vẫn theo phong tục nước nhà chẳng tự xây cho mình cái gì to tát (CQT), để đến thời “Đại Nam” thì những vua có tội lớn lại chềnh ềnh lăng kia lăng nọ! Xây lăng trong khi giặc đang đánh, hoặc khi mình bất quá bù nhìn của giặc! Ngay chính trong triều Nguyễn, lịch sử cũng mỉa mai. Các vua Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân tuy chống Pháp thất bại nhưng dù sao cũng có tấm lòng vì nước, thế mà lăng đâu, lăng đâu!
Về Khải Định, Phan Chu Trinh có mấy vần nổi tiếng: “Ai về địa phủ hỏi Gia Long / Khải Ðịnh thằng này phải cháu ông? / (…) / Năm ngoái qua Tây ỉa vãi cùng! / Bảo hộ trau dồi nên tượng gỗ / Vua thời còn đó, nước thời không!”. Đó là tượng, đâu phải vua. Một cái tượng biết đi qua Pháp như để làm nhục thêm dân tộc Việt Nam vốn đang mang nhục mất nước!
Về Bảo Đại: Đã làm bù nhìn cho giặc bao nhiêu năm, ăn chơi khét tiếng trong lúc nước nhục dân khổ, rồi trở lại làm quốc trưởng cho cái ngụy quyền “từ thực dân mà ra” ấy cho giặc lợi dụng làm cuộc trường kỳ kháng chiến đã muôn vàn khó khăn càng thêm khó khăn, và đồng thời tạo điều kiện cho ngoại bang khác thai nghén một ngụy quyền khác khiến không biết bao nhiêu máu dân nữa sẽ phải đổ thì đất nước mới được thống nhất!
Kết luận
Các chúa Nguyễn có công đã mở nước từ Phú Yên tới mũi Cà Mau trong một thời gian tương đối ngắn. Công này sở dĩ lập được, ấy là nhờ ở miền Trung các triều đại trước đã tiêu diệt gần hết sinh lực của Chiêm Thành, trong Nam thì Chân Lạp đang mạt vận, Chân Lạp không quý vùng đất mà ta muốn chiếm, lại thêm có một số vong thần nhà Minh chạy qua ở rồi chịu thần phục. Các chúa Nguyễn còn có công phát triển kinh tế Đàng Trong, với Hoa kiều đóng vai trò “hậu thuẫn”. Trong các vua Nguyễn, hai vua Minh Mạng, Thiệu Trị có công chống giặc Xiêm. Tổng kết, họ Nguyễn đã lập được công to.
Tuy nhiên, tất cả những việc làm có lợi cho Tổ quốc của dòng họ này, kể cả việc Nguyễn Ánh thống nhất đất nước, đã bị những việc làm khác của chính họ vô hiệu hóa. Tâm lý sùng bái Trung Quốc phát sinh từ hoàn cảnh bất thường đã lần lượt thể hiện thành chính sách văn hóa gây xúc phạm đến tự hào dân tộc, rồi hành động mang ý nghĩa phản quốc, rồi rút cuộc, như một định mệnh, sách lược kinh tế – quốc phòng sai lầm nặng nề đến mức đưa dân tộc vào vòng nô lệ.
Đã làm mất nước, thế mà vẫn chưa hết! Trước khi biến khỏi lịch sử Việt Nam, họ Nguyễn còn lập “được” một tội mới cũng thật to: tức là cái việc Bảo Đại trở lại “ngôi” vừa nói ở trên.
Về họ Nguyễn Gia Miêu, khi nhìn lại toàn bộ sự nghiệp, rõ ràng cái phần cần được “công nhận” cho đầy đủ là phần tội chứ không phải phần công!
công: tạo ra hình đất nước
tội: bán nước cho pháp
Công mở nước của các Chúa Nguyễn
Phải thấy cả đầu, mới rõ đầu đuôi. Trước khi ôn việc làm của các chúa Nguyễn, phải ôn sự nghiệp mở nước của các triều đại xưa.
Chiêm Thành từng cường thịnh ngang ngửa với Đại Việt. Cuối đời Đinh, nhân nước ta có nội biến, quân Chiêm đã định ra đánh úp kinh đô Hoa Lư! (ĐDA-1). Chiêm Thành là một vấn đề to đến nỗi sau đó, triều đại nào cũng có vua phải ngự giá thân chinh phương Nam: Lê Hoàn, Lý Thái Tôn, Lý Thánh Tôn, Trần Thái Tôn, Trần Anh Tôn, Trần Duệ Tôn, Lê Thánh Tôn. Đại tướng như Lý Thường Kiệt cầm quân ra trận thì không kể. Và không phải cứ đi đánh là thắng, mà có thể thua to đến nỗi chết cả vua (Trần Duệ Tôn)! Cũng không phải là chỉ có ta vào đánh Chiêm, mà Chiêm cũng ra đánh ta, trước sau xâm phạm bờ cõi Việt 43 lần! (TNT). Mới hồi thế kỷ XIV, Chế Bồng Nga đã “ra vào nước Nam ta như đi vào chỗ không người”, ba lần đốt phá Thăng Long (TTK). Năm 1470, Lê Thánh Tôn mang 26 vạn quân Nam chinh đại thắng, mở đất dứt khoát đến đèo Cù Mông và chia phần còn lại của Chiêm Thành thành ba “nước” rất nhỏ (ĐDA-1). Từ đây, vương quốc kình địch một thời của ta chỉ là ba cái bóng mờ đợi tan!
Việc bành trướng tiếp theo của các chúa Nguyễn cơ bản là thực hiện kế sách “tằm ăn dâu”, “dân đi trước, làng nước theo sau”, rồi quân theo vào đàn áp kháng chiến yếu ớt, chính thức hóa việc lấn đất, làm công tác bình định, chứ hoàn toàn không phải dùng đến vũ lực to lớn như các thời trước. Năm 1611, Nguyễn Hoàng cho quân chiếm nước Hoa Anh mở vùng đất bây giờ là tỉnh Phú Yên. Đến năm 1697 thì ta lấy xong toàn bộ Chiêm Thành.
Việc mở Nam bộ hoàn thành năm 1759, và diễn tiến đại khái cũng như trên, tức nặng về phát triển kinh tế hơn hẳn chinh phục quân sự. Sở dĩ tránh được dụng binh qui mô trong đợt Nam tiến chót này, ấy là nhờ ta đã gặp ba cái may mắn thật là đặc biệt.
Cái may thứ nhất là nước Chân Lạp đang mạt vận. Hoàng tộc lủng củng nội bộ hết sức nặng nề, đua nhau rước quân Việt vào giúp giành ngôi báu, kẻ được ngôi cắt đất làm quà tạ chúa Nguyễn. Ta có thể can thiệp rất dễ dàng, bởi binh lực Chân Lạp bấy giờ vô cùng suy nhược, có lần chỉ dùng 3.000 quân cũng bắt được vua! Do quân Xiêm cũng vào can thiệp, ta nhiều lần đụng độ với Xiêm, nhưng không trên một qui mô gần so sánh được với chiến sự Đại Việt – Chiêm Thành trước kia.
Cái may thứ hai là Thủy Chân Lạp (tức Nam bộ) là đất tương đối kém giá trị đối với Chân Lạp, do đó mới bị cắt làm quà dễ dàng. Vì một số lý do lịch sử và địa lý, tuy sau khi Phù Nam diệt vong thì chính thức thuộc về Chân Lạp nhưng đất ấy rút cuộc chưa bao giờ có nhiều người Chân Lạp ở và việc khai thác tài nguyên cũng hạn chế nên không trở thành một nguồn lợi quan trọng. Người Chân Lạp sống đông nhất ở vùng Ba Thắc (Sóc Trăng), Cần Thơ, Trà Vinh, nhưng họ chọn ở “trên đất giồng cao ráo” chứ không lao xuống sình lầy mênh mông để khai khẩn cho thành ruộng vườn (SN), và dân số tổng cộng cũng không bao nhiêu: “Khi lưu dân Việt và vong thần người Hoa đến đây vào thế kỷ XVII (thì miền Tây) là vùng đất hoang (chỉ có) một số ít người Khmer lưu trú” (HVT). Nhờ họ “để dành” cái công khai phá vỡ hoang lại cho tổ tiên ta, mà Sơn Nam mới có “chuyện” để viết nên Lịch sử khẩn hoang miền Nam!
Cái may thứ ba trong việc mở Nam bộ tình cờ vừa được nhắc tới trong câu văn trích trên. Nhờ một số quan nhà Minh không chấp nhận triều Thanh, bỏ Trung Quốc chạy xa xuống phía Nam lập nghiệp, mà kinh tế ở một số địa phương thuộc Thủy Chân Lạp đã sớm phát triển. Những địa phương này rồi được dâng cả cho chúa Nguyễn. Tự dưng có người Tàu bên Tàu chạy qua đất của Chân Lạp bỏ công của ra mở mang, xong đem hiến cho Việt Nam, chẳng tuyệt vời sao!
Tội diệt văn hóa Việt Nam của các Chúa Nguyễn
Nước thì phải có văn hóa riêng mới đáng là nước. Đáng giữ khi bị người ta chực lấy, đáng giành lại khi bị lấy mất. Tự hào văn hóa trước các chúa Nguyễn đã tiềm tàng trong câu thơ Lý Thường Kiệt, hiển hiện trong Bình Ngô đại cáo, sau các chúa Nguyễn lại hiển hiện trong lời hịch kêu gọi đánh quân Thanh của vua Quang Trung, “Lời kêu gọi Hội Quốc Liên” (1926) của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Riêng các chúa Nguyễn thiếu tự hào đến mức đã tiến hành tiêu diệt văn hóa Việt Nam!
Tội tày đình bắt đầu với Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát: “Vào khoảng năm 1744, chúa Võ Vương bắt (…) cải cách y phục (…) theo lối quần áo của người Tàu” (ĐDA-2). Cụ thể, “buộc quan dân phải ăn mặc theo sách Tam tài đồ hội (…) là bộ bách khoa từ điển bằng tranh, xuất bản đời Minh”! (TGC). Dân tự ý bắt chước là một chuyện. Người cai trị bắt dân bắt chước là một chuyện khác, hình như độc đáo trong lịch sử thế giới!
Cái gì đã xui Võ Vương làm chuyện không giống ai? Để ý tới Nguyễn Phúc Khoát thì họ Nguyễn mới xưng chúa. Xưng cho bằng Trịnh. Xưng xong liền cố làm cho văn hóa Đàng Trong khác Đàng Ngoài. Nhưng đó mới là một động cơ. Động cơ nữa là tình cảm quý trọng đặc biệt dành cho người Tàu. Cái nhận xét của Sơn Nam: “Huê kiều (…) là hậu thuẫn kinh tế cho Nguyễn Ánh”, nó đúng cho toàn thể Đàng Trong và từ trước Nguyễn Ánh. Chúa Đàng Trong kỵ Đàng Ngoài quý Huê đã khiến dân Đàng Trong phải cởi váy mặc quần!
Năm 1776, Trịnh thắng Nguyễn, Lê Quý Đôn vào tham gia tiếp quản Thuận Hóa, có viết kể: “Tôi được sai làm Tham thị quân vụ (…) giúp việc (cho) trấn phủ (…) Vào đến nơi thì (thấy) quan dân (Ðàng Trong) ăn mặc lạ kiểu (…) Tôi cùng đồng liêu (quyết định) đổi bỏ lối ăn mặc dị dạng để theo chế độ quốc triều” (LQĐ).
Nhưng bể dâu chưa dứt, rút cuộc họ Nguyễn lại được nắm quyền cai trị nước mà tiếp tục thực hiện chủ trương Hoa hóa của mình.
Bốn tội to của Nguyễn Ánh
Sự nghiệp của Nguyễn Ánh có thể tóm lại bằng ba chữ: chống Tây Sơn. Vậy Tây Sơn là thế nào?
Trong Việt Nam sử lược, Trần Trọng Kim viết: “Anh em (Tây Sơn) đối với họ Nguyễn là cừu địch, nhưng mà đối với nước Nam, thì chẳng qua cũng là (…) anh hùng lập thân trong lúc biến loạn đó mà thôi (…) Vua Chiêu Thống (…) đi sang kêu cầu bên Tàu (…) nước Nam ta, bề ngoài tuy chưa mất hẳn, nhưng kỳ thật đã vào tay người Tàu rồi (…) Nước đã mất, thì phải lấy nước lại, ông Nguyễn Huệ mới lên ngôi hoàng đế (…) đánh một trận phá 20 vạn quân Tàu (…) Tưởng từ xưa đến nay nước ta chưa có võ công nào lẫm liệt như vậy”. Còn Hoàng Xuân Hãn thì nhận định: “Quang Trung (…) Cái công đánh bạt Tôn Sĩ Nghị ở Thăng Long, cái công ấy rất to. Bởi vì nếu Tôn Sĩ Nghị không thua, để cho nhà Lê tiếp tục thì tự nhiên nhà Lê sẽ ở dưới quyền vua Thanh. Cái đó chắc chắn (…) Công ấy rất to” (HXH).
Tây Sơn là thế. Tuy vậy, khi đất nước chưa yên thì Nguyễn Ánh, hay bất cứ ai, vẫn có quyền tranh giành ngôi báu với Tây Sơn. Có điều, tuyệt đối không được “cõng rắn cắn gà nhà”. Nguyễn Ánh trước cõng rắn Xiêm sau cõng rắn Pháp, hai tội này ai nấy đều đã biết. Nhưng còn hai tội rất to nữa mọi người cũng cần phải biết.
Tội thứ ba, Việt Nam sử lược ghi: “(Năm 1817) tàu binh (…) của nước Pháp vào cửa Đà Nẵng. Quan thuyền trưởng (…) nói rằng Pháp Hoàng Louis XVIII sai sang xin thi hành những điều ước do Bá Đa Lộc ký năm 1787 về việc nhường cửa Đà Nẵng và đảo Côn Lôn. Vua Thế Tổ sai quan ra trả lời rằng những điều ước ấy nước Pháp trước đã không thi hành thì nay bỏ, không nói đến nữa”. Vậy là Nguyễn Ánh đã chấp nhận cắt đất làm quà tạ cho Pháp!
Tội thứ tư được Tạ Chí Đại Trường dẫn chính Đại Nam thực lục mà nêu: “(Nguyễn Ánh) nghe quân Thanh đánh Tây Sơn, sai Phạm Văn Trọng đem thư đi Quảng Đông và lấy 50 vạn cân gạo giúp. Ghe bị chìm” (TCĐT). Đây là tội nghiêm trọng nhất. Bởi giúp Thanh đánh Tây Sơn tức là mong Thanh thắng, là chấp nhận Bắc thuộc, là hành động phản quốc!!! Tại sao Nguyễn Ánh phản quốc? Vì chống Tây Sơn đã đành. Nhưng còn vì cái truyền thống sùng bái Trung Quốc của dòng họ mình nữa. Từ tự đồng hóa với người đến chấp nhận nước mình hóa thành một phần của nước người, đâu có xa! Hiển nhiên đối với Nguyễn Ánh, làm chúa Đàng Trong hay làm quan cai trị nửa phía Nam của lãnh thổ mới mở của Tàu, cũng vậy thôi!
Nguyễn Ánh đã thống nhất đất nước. Nhưng do bốn cái tội to vừa kể, việc này nên được ghi nhận như một sự kiện, thay vì một công.
Tội của vua Minh Mạng
Vua Minh Mạng đã tiếp tục sự nghiệp tiêu diệt văn hóa dân tộc bắt đầu bởi Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát. Năm 1828, vua xuống chiếu bắt dân Đàng Ngoài phải thay đổi cách ăn mặc cho giống dân Đàng Trong. Năm 1837, lại xuống chiếu nữa: “Trẫm đã ra lệnh đổi y phục như từ Quảng Bình trở vào để phong tục thuần nhất. Lại ban hạn rộng rãi để ai nấy có thì giờ khâu may. Nhưng đến nay, kể đã ngoài 10 năm, mà ở Đàng Ngoài (…) chưa chịu đổi thay. Từ Quảng Bình trở vào Nam, hết thảy đã ăn mặc theo lối nhà Hán, nhà Minh, mũ mãng, áo quần (…) chỉnh tề, tươm tất. Dân Bắc kỳ cứ ăn mặc theo lối cũ (…) đàn bà, con gái mặc áo vạt khép vào nhau, dưới thì mặc váy (…) Nay truyền cho các viên tổng đốc, tuần phủ, bố chánh, án sát các tỉnh (…) ban hạn trong năm nay tất cả phải thay đổi (…) Nếu năm tới còn có kẻ nào ngoan cố áo quần, phải trị tội thật nặng” (ĐĐN).
Cái kẻ đáng “trị tội thật nặng” chính là kẻ làm vua nước Việt Nam mà lại đi cưỡng bách dân tộc Việt Nam đồng hóa với ngoại nhân!!! Nhưng “phép vua thua lệ làng”, bất kể hai cái “chiếu” của vua Minh Mạng, thứ trang phục “vừa bằng cái thúng mà thủng hai đầu, bên ta thì có, bên Tàu thì không” nó vẫn cứ tiếp tục còn nơi đất Bắc để hàng thế kỷ sau các liền chị ở Bắc Ninh mặc đi hát quan họ cho Hoàng Cầm trầm trồ tấm tắc “cái váy lụa mềm óng buông chùng cửa võng xuống đến mu bàn chân, nhìn đằng trước tưởng là các cô đang đi lướt trên sóng lượn rập rờn” (HC).
Và ngay ở Đàng Trong, cũng hàng thế kỷ sau, tuy trang phục dân gian khác với ngoài Bắc nhưng rõ ràng không phải là lối Tàu. Tức dân chúng Đàng Trong đã lặng lẽ chống lại lệnh đồng hóa của vua chúa Nguyễn mà sáng kiến ra trang phục Việt Nam mới. Văn hóa ăn mặc Đàng Trong có bản sắc riêng là nhờ nhân dân và bất chấp vua Nguyễn!
(Chủ trương Hoa hóa không thành công hẳn cũng có vì giặc Pháp qua khiến việc nước rối ren, rồi vua hóa bù nhìn.)
Tội của các vua tự Đức, Khải Định, Bảo Đại
Quyết định bác bỏ canh tân của vua Tự Đức chắc chắn có gốc ở tình hình bên Tàu: “Từ khi nhà Thanh lên (…) bế quan chủ nghĩa đã được thực hành đáo để (…) Triều đình (…) chỉ biết câu thủ nề nếp cũ, không dám có chút biến thông” (ĐDA-4). Nhà Thanh đưa Trung Quốc vào dưới gót liệt cường. Tự Đức theo Thanh khiến Việt Nam phải làm con nước Pháp!
Tự Đức còn được nhớ vì câu ca dao “Vạn Niên là Vạn Niên nào / Thành xây xương lính, hào đào máu dân”. Xây lăng qui mô đến nỗi dân làm loạn (“giặc Chày Vôi”), đó cũng là do bắt chước Tàu đấy! Các vua Lý, Trần dù có công lớn vẫn theo phong tục nước nhà chẳng tự xây cho mình cái gì to tát (CQT), để đến thời “Đại Nam” thì những vua có tội lớn lại chềnh ềnh lăng kia lăng nọ! Xây lăng trong khi giặc đang đánh, hoặc khi mình bất quá bù nhìn của giặc! Ngay chính trong triều Nguyễn, lịch sử cũng mỉa mai. Các vua Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân tuy chống Pháp thất bại nhưng dù sao cũng có tấm lòng vì nước, thế mà lăng đâu, lăng đâu!
Về Khải Định, Phan Chu Trinh có mấy vần nổi tiếng: “Ai về địa phủ hỏi Gia Long / Khải Ðịnh thằng này phải cháu ông? / (…) / Năm ngoái qua Tây ỉa vãi cùng! / Bảo hộ trau dồi nên tượng gỗ / Vua thời còn đó, nước thời không!”. Đó là tượng, đâu phải vua. Một cái tượng biết đi qua Pháp như để làm nhục thêm dân tộc Việt Nam vốn đang mang nhục mất nước!
Về Bảo Đại: Đã làm bù nhìn cho giặc bao nhiêu năm, ăn chơi khét tiếng trong lúc nước nhục dân khổ, rồi trở lại làm quốc trưởng cho cái ngụy quyền “từ thực dân mà ra” ấy cho giặc lợi dụng làm cuộc trường kỳ kháng chiến đã muôn vàn khó khăn càng thêm khó khăn, và đồng thời tạo điều kiện cho ngoại bang khác thai nghén một ngụy quyền khác khiến không biết bao nhiêu máu dân nữa sẽ phải đổ thì đất nước mới được thống nhất!
Kết luận
Các chúa Nguyễn có công đã mở nước từ Phú Yên tới mũi Cà Mau trong một thời gian tương đối ngắn. Công này sở dĩ lập được, ấy là nhờ ở miền Trung các triều đại trước đã tiêu diệt gần hết sinh lực của Chiêm Thành, trong Nam thì Chân Lạp đang mạt vận, Chân Lạp không quý vùng đất mà ta muốn chiếm, lại thêm có một số vong thần nhà Minh chạy qua ở rồi chịu thần phục. Các chúa Nguyễn còn có công phát triển kinh tế Đàng Trong, với Hoa kiều đóng vai trò “hậu thuẫn”. Trong các vua Nguyễn, hai vua Minh Mạng, Thiệu Trị có công chống giặc Xiêm. Tổng kết, họ Nguyễn đã lập được công to.
Tuy nhiên, tất cả những việc làm có lợi cho Tổ quốc của dòng họ này, kể cả việc Nguyễn Ánh thống nhất đất nước, đã bị những việc làm khác của chính họ vô hiệu hóa. Tâm lý sùng bái Trung Quốc phát sinh từ hoàn cảnh bất thường đã lần lượt thể hiện thành chính sách văn hóa gây xúc phạm đến tự hào dân tộc, rồi hành động mang ý nghĩa phản quốc, rồi rút cuộc, như một định mệnh, sách lược kinh tế – quốc phòng sai lầm nặng nề đến mức đưa dân tộc vào vòng nô lệ.
Đã làm mất nước, thế mà vẫn chưa hết! Trước khi biến khỏi lịch sử Việt Nam, họ Nguyễn còn lập “được” một tội mới cũng thật to: tức là cái việc Bảo Đại trở lại “ngôi” vừa nói ở trên.
Về họ Nguyễn Gia Miêu, khi nhìn lại toàn bộ sự nghiệp, rõ ràng cái phần cần được “công nhận” cho đầy đủ là phần tội chứ không phải phần công!