Đánh giá mối liên hệ giữa lịch sử , truyền thống văn hooas đối với sự phát triển hiện nay của các quốc gia Đông Nam Á
0 bình luận về “Đánh giá mối liên hệ giữa lịch sử , truyền thống văn hooas đối với sự phát triển hiện nay của các quốc gia Đông Nam Á”
Chiều tác động của văn hóa trong kinh tế
Như trên đã trình bày, văn hóa thuộc “tính thứ hai” so với kinh tế, nhưng không phải là hệ quả thụ động, một chiều; do tính độc lập tương đối và dưới tác động của quá trình phát triển kinh tế thị trường, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, mà sự tác động của văn hóa đối với kinh tế sẽ phức tạp và đa chiều. Trong xã hội hiện đại, văn hóa lại càng “thoát ra” mạnh hơn khỏi phạm vi “đời sống tinh thần” thuần túy. Văn hóa xâm nhập, tương tác vào tất các các lĩnh vực của đời sống xã hội (chính trị, kinh tế, giáo dục, khoa học – công nghệ, đối ngoại và hội nhập quốc tế…), không chỉ là những giá trị phát triển mà còn trở thành một phần thiết chế phát triển của các lĩnh vực đó. Với kinh tế mối quan hệ đó được thể hiện trong 3 dạng chủ yếu:
– Văn hóa là một yếu tố quan trọng trong xây dựng thể chế, thiết chế phát triển kinh tế, một định hướng cho mục tiêu phát triển kinh tế.
– Văn hóa là một động lực, công cụ để hỗ trợ – thúc đẩy phát triển kinh tế; và phát triển kinh tế tạo cơ sở nguồn lực và động lực phát triển văn hóa.
– Văn hóa trực tiếp trở thành một lĩnh vực kinh tế (thế giới nói tới “công nghiệp văn hóa”, “sản nghiệp văn hóa”, “kinh tế văn hóa”, “dịch vụ văn hóa”…).
Đây là những vấn đề rất mới và quan trọng, cần được nghiên cứu thấu đáo cả về lý luận và thực tiễn, nhất là khi xã hội đi vào phát triển kinh tế tri thức và xã hội thông tin.
Văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế – xã hội_Ảnh: Tư liệu
1)Tác động của văn hóa tới mục tiêu và chính sách phát triển kinh tế
Đây có thể là sự tác động của văn hóa tới sự phát triển kinh tế ở tầng vỹ mô (cao nhất), cũng như ở các chủ thể sản xuất kinh doanh. Ở đây các giá trị con người, giá trị xã hội thể hiện ở quyền, nghĩa vụ, lợi ích và cuộc sống của con người được xem xét và đặt vào vị trí như thế nào trong trọng tâm của các mục tiêu và chính sách phát triển kinh tế, vào việc hình thành các mục tiêu đó trong thể chế – cơ chế phát triển kinh tế. Điều này được thể hiện rất rõ trong tư duy và chính sách phát triển kinh tế hướng tới như thế nào trong việc thực hiện các giá trị con người và giá trị xã hội. Trên thực tế thường có ba xu hướng sau :Một là, khi nhận thức rõ tầm quan trọng của việc hướng tới thực hiện các gia trị con người và các giá trị xã hội, coi đó vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển (đương nhiên là cần phải phù hợp với điều kiện và trình độ phát triển của từng giai đoạn cụ thể), thì trong mục tiêu, cơ chế và chính sách phát triển kinh tế sẽ có sự kết hợp một cách hữu cơ với phát triển các vấn đề xã hội, mà trọng tâm là các giá trị con người, giá trị văn hóa.Hai là, xu hướng coi nhẹ các các mục tiêu giá trị con người, giá trị văn hóa, đặt các mục tiêu kinh tế (phát triển công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ…) tách biệt với các mục tiêu phát triển xã hội, đặt cao các mục tiêu phát triển kinh tế như là những mục đích tối thượng – tự thân. Xu hướng này kéo dài sẽ dẫn đến mâu thuẫn gay gắt giữa các vấn đề kinh tế và các vấn đề xã hội, làm giảm động lực nhân tố con người trong phát triển. Về điều này có thể liên hệ qua một ví dụ nhỏ : Việc quy hoạch và phát triển tràn lan các nhà máy thủy điện nhỏ ở nhiều nơi (vì mục tiêu tăng sản lượng điện), nhưng không tính tới và đảm bảo đầy đủ về lợi ích của người dân trong vùng liên quan, về môi trường sinh thái, về rừng …, gây ra những hệ quả nghiêm trọng, đã phải rà soát lại và bỏ ra khỏi quy hoạch hàng trăm công trình. Điều này còn thấy thể hiện ở những chính sách đầu tư ở tầm cao hơn.Ba là, xu hướng coi trọng việc đặt và thực hiện các mục tiêu xã hội cao hơn điều kiện và trình độ thực tế của nền kinh tế, thể hiện ở chế độ bao cấp cao và mang tính bình quân cho việc thực hiện các mục tiêu xã hội. Điều này, nhìn bề ngoài được thể hiện như là một tính ưu việt của xã hội; tuy nhiên nếu kéo dài có thể sẽ dẫn đến hai hệ quả : nguồn lực kinh tế của đất nước không đủ sức chịu đựng cho sự bao cấp như vậy, đầu tư cho phát triển sẽ giảm dần. Đồng thời, trong xã hội có thể sẽ hình thành “giá trị con người – giá trị xã hội” quen hưởng thụ được bao cấp cao hơn năng lực và cống hiến của mình, chính điều này cũng sẽ làm yếu đi động lực con người trong sự phát triển. Có thể nêu lên đây hai ví dụ cho xu hướng này: Ở Việt nam, chính sách xóa đói giảm nghèo rất ưu việt, song một số nơi thực hiện sự bao cấp bình quân cao và không có điều kiện kèm theo, vì vậy dẫn đến hiện tượng nhiều hộ, nhiều địa phương “không muốn thoát nghèo”. Còn ở Châu Âu, cuộc khủng hoảng nghiêm trọng về nợ công và thâm hụt ngân sách ở nhiều nước, có nhiều nguyên nhân, song trong đó có một nguyên nhân là các nước đó đã thực hiện các chính sách xã hội cao hơn so với nguồn lực thực tế, điều kiện và khả năng phát triển kinh tế của mình.
Như vậy, việc nhận thức cho đúng các mục tiêu về giá trị văn hóa, giá trị xã hội trong mỗi giai đoạn và việc đặt các mục tiêu đó gắn hữu cơ – biện chứng với mục tiêu, chiến lược, quy hoạch, cơ chế và chính sách phát triển kinh tế có một tầm quan trọng đặc biệt.
2)Tác động của văn hóa trong sản xuất kinh doanh:
Như trên đã trình bày, khi văn hóa phát triển xác lập được thành những thể chế, thiết chế mới, những giá trị con người, giá trị văn hóa, giá trị xã hội mới sẽ tác động trở lại đối với sự phát triển kinh tế và các lĩnh vực khác. Sự tác động này có thể mang tính thuận chiều hoặc ngược chiều : Khi những giá trị con người – giá trị văn hóa phù hợp với quy luật và cơ chế phát triển kinh tế khách quan sẽ có sự tác động cùng chiều và tạo nên động lực mạnh cho sự phát triển cả về kinh tế và xã hội. Ngược lại, khi các giá trị con người – giá trị văn hóa không phù hợp với quy luật và cơ chế phát triển kinh tế sẽ có tác động ngược chiều, làm suy yếu động lực phát triển cả về kinh tế và xã hội, thậm chí có thể còn dẫn tới những rối loạn xã hội. Có thể thấy điều này ở trong cơ chế HTX – Tập thể hóa trước đây, hình thành các giá trị con người và giá trị văn hóa của cơ chế đó, về bản chất là không phù hợp với quy luật kinh tế khách quan, đã đi đến mất động lực phát triển, làm cho nền nông nghiệp rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng trong những năm 1970 – 1980, phải đi đến giải thể. Khi chuyển sang xác định “Hộ nông dân là đợn vị kinh tế tự chủ” với các giá trị mới về vị thế của kinh tế hộ nông dân, về quyền của người nông dân như quyền làm chủ ruộng đất, tư liệu sản xuất và sản xuất kinh doanh…, và trên cơ sở phát triển kinh tế hộ nông dân để hình thành các hợp tác xã kiểu mới, phù hợp với bản chất của nền kinh tế nông nghiệp, đã tạo nên động lực mạnh mẽ – chủ yếu cho phát triển nông nghiệp, tạo nên những “kỳ tích” của nền nông nghiệp trong những thập kỷ qua (nhưng giờ đây lại đang đặt ra những vấn đề mới trong phát triển nông nghiệp) .
Trong quá trình phát triển kinh tế thị trường, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, vai trò của văn hóa kinh doanh, văn hóa quản trị doanh nghiệp đóng vai trò rất quan trọng đối với phát triển kinh tế. Ở đây sẽ diễn ra sự tương tác giữa các giá trị văn hóa và các giá trị kinh tế phước tạp và mang tính hai mặt. Một mặt, các mô hình quản trị kinh doanh mới, các hình thức tổ chức và phương pháp quản trị doanh nghiệp tiến tiến cùng với nguồn nhân lực chất lượng cao hơn từ các nước có nền công nghiệp tiên tiến hơn được đưa vào Việt nam với các các giá trị văn hóa kinh doanh mới (thông qua các doanh nghiệp FDI, doanh nghiệp liên doanh liên kết, qua các hợp đồng hợp tác kinh doanh, qua đào tạo nhân lực…). Đây là những giá trị văn hóa kinh doanh tiên tiến (như coi trọng xây dựng chiến lược phát triển dài hạn, xây dựng thương hiệu, chất lượng, hiệu quả, đổi mới công nghệ, trọng dụng nhân tài, văn hóa hội nhập quốc tế…) có tác dụng quan trọng đối với việc đổi mới và xây dựng nền quản trị kinh doanh của Việt Nam từng bước tiếp cận với chuẩn mực quốc tế. Nhưng đồng thời, khi khung khổ pháp lý của nước ta chưa đồng bộ, kém hiệu lực – hiệu quả, thì cũng bị các đối tác nước ngoài “đưa vào” những giá trị văn hóa kinh doanh tiêu cực như hiện tượng “chuyển giá” rất nghiêm trọng ở những doanh nghiệp FDI mà báo chí đã nêu, hay cách bắt lao động làm quá sức lại trả lương rất thấp ở không ít doanh nghiệp…Đồng thời, trong quá trình này không ít các giá trị văn hóa kinh doanh mang tính “chộp giật”, lừa đảo, cò con, thiếu trách nhiệm giải trình, trách nhiệm xã hội…của một nền sản xuất nhỏ còn đang tồn đọng đã có tác động tiêu cực lớn đến kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh, đến xây dựng nền văn hóa kinh doanh mới đáp ứng với yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế..
Phát triển văn hóa và con người trong bối cảnh từ một đất nước với nền sản xuất nông nghiệp tiểu nông, thủ công là chủ yếu, còn mang nặng dấu ấn của tồn đọng của xã hội phong kiến thực dân, từ một xã hội nhiều năm có chiến tranh sang xã hội hòa bình; chuyển đổi thể chế phát triển kinh tế – xã hội từ tập trung quan liêu bao cấp sang phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN; từ khép kín, đóng cửa sang hội nhập quốc tế toàn diện; từ mô hình phát triển chủ yếu theo chiều rộng sang mô hình phát triển theo chiều sâu… đang đứng trước rất nhiều cơ hội và thách thức. Trong đó nổi lên một trong những vấn đề trung tâm làhình thành và phát triển hệ giá trị xã hội, hệ giá trị con ngườinhư thế nào để tạo động lực cho sự phát triển kinh tế và xã hội. Trên thực tế đang tồn tại những nhận thức, quan niệm và thực tiễn rất khác nhau (được thể hiện ngay trong các cách đánh giá “tốt, xấu”, “tích cực, tiêu cực”, “chính đáng, không chính đáng”…). Có thể nêu lên một số thực trạng để thấy rõ hơn bản chất của vấn đề :Thứ nhất, đó là tệ nạn tham nhũng. Đảng, Nhà nước và toàn hệ thống chính trị đã nhận rõ mối nguy hại của tệ nạn này (coi là quốc nạn, giặc nội xâm), đã tổ chức những “binh chủng” hùng mạnh, đã ban hành nhiều cơ chế chính sách và giải pháp, nhưng kết quả và hiệu quả vẫn rất hạn chế, tệ nạn này vẫn đang rất nghiêm trọng và tạo ra những “giá trị văn hóa, giá trị con người, giá trị xã hội” tiêu cực , đang làm sói mòn lòng tin của nhân dân (mà lòng tin là một trong những giá trị cao nhất của văn hóa). Trên diễn đàn Quốc Hội kỳ họp này đã gióng lên những lời cảnh tỉnh : “nợ xấu lòng tin” và “tồn đọng trách nhiệm”; “liên minh ma quỷ đó khiến ngân khố quốc gia ngày càng bị bòn rút”; “xuất hiện tình trạng lãnh đạo các địa phương vận động các đại biểu Quốc Hội trước mỗi kỳ họp không chất vấn hay nói về tham nhũng”; “giờ đây đang có một thực trạng đáng lo ngại, đó là việc người dân đang vô cảm với công tác phòng chống tham nhũng”. Ở đây không đánh giá về công tác phòng chống tham nhũng, mà xét dưới giác độ văn hóa cho thấy rằng “giá trị xã hội” của tham nhũng đang còn tồn tại rất mạnh trong một lượng xã hội gắn với chức quyền (mà trong văn kiện của Đảng và Nhà nước nhận định là một bộ phận không nhỏ), lại được “bảo trợ” bởi những bất cập, yếu kém, sơ hở của hệ thống thiết chế chưa được hoàn thiện. “Giá trị xã hội” của tham nhũng đang chìa tay ra kết nhân duyên và thẩm thấu vào các lĩnh vực của đời sống xã hội, làm băng hoại những giá trị tốt đẹp của xã hội (khi nói về công tác tuyển dụng và đề bạt cán bộ, công chức, đến Chủ tịch Quốc Hội Nguyễn Sinh Hùng phải thốt lên không tham nhũng lấy gì mà chạy chức, hiện nay tiêu cực, “bôi trơn”, chạy chọt ở khâu nào cũng có; hay như trong điều tra của Thanh tra Chính phủ vừa công bố có đến 70 % doanh nghiệp phải chủ động đưa hối lộ). Nhưng rất tiếc là những thiết chế đặt ra và thực thi chưa đủ mạnh để ngăn chặn và đẩy lùi các “gia trị tham nhũng”, và những giá trị tiêu cực này đang ảnh hưởng và tác động rất xấu đến kết quả và hiệu quả của nền kinh tế, làm suy yếu nghiêm trọng động lực phát triển. Trong kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XIII, khi trả lời về nợ công cao, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nêu trong đó có nguyên nhân sử dụng kém hiệu quả và tham nhũng.Thứ hai, đó là thực trạng chất lượng nguồn nhân lực còn thấp. Điều này phản ánh những “khiếm khuyết” về giá trị văn hóa, giá trị con người và giá trị xã hội không chỉ trong kinh tế mà còn trong nhiều lĩnh vực xã hội. Thế giới đánh giá nguồn nhân lực Việt nam trẻ, dồi dào, thông minh, nhanh nhạy, tháo vát…, nhưng trước yêu cầu của lối sống công nghiệp lại đang bộ lộ nhiều yếu kém, bất cập, như ý thức và văn hóa nghề nghiệp yếu, kỷ luật lao động chưa cao, trình độ tay nghề thấp, khả năng vận dụng sáng tạo kiến thức đã học vào thực hành bị hạn chế, kỹ năng làm việc nhóm yếu, kỹ năng mềm còn nhiều hạn chế, năng suất lao động thấp (bình quân chỉ bằng 1/4 trung bình của các nước trong khối ASEAN) …Điều này không phải chỉ là hệ quả của một nền giáo dục còn nhiều yếu kém, bất cập mà giờ đây đang đứng trước yêu cầu phải đổi mới căn bản , toàn diện, mà còn là hệ quả của một tâm lý xã hội coi trọng “giá trị danh vọng” không gắn với gía trị lao động xã hội đích thực; đó cũng còn là hệ quả của một tâm lý xã hội và trong hệ thống cán bộ – công chức còn không ít “tiêu chí”coi trọng văn bằng chứng chỉ hơn là năng lực lao động thực tế. Những điều này đã làm “biến dạng” đi những định hướng về giá trị con người và giá trị xã hội. Những giá trị “méo mó” về con người, về nhân lực đó đã tác động tiêu cực lâu dài đến sự phát triển kinh tế, xã hội. Những điều nêu trên chỉ muốn nói rằng để xây dựng và hiện thực hóa được hệ giá trị xã hội và hệ giá trị con người đúng đắn, phù hợp và tốt đẹp, không đơn thuần nêu lên và mong muốn có những giá trị đó về mặt lý thuyết, không chỉ là giáo dục và thuyết phục về mặt đạo lý, dù rất quan trọng; Điều quan trọng là phải xây dựng được đồng bộ hệ thống các thiết chế công khai minh bạch, phù hợp, hiệu lực và hiệu quả trong tất cả các lĩnh vực, các mặt của đời sống xã hội, nhằm điều tiết các hoạt động của mọi người, mọi tổ chức kinh tế, xã hội, và của chính Nhà nước trong khuôn khổ của pháp luật, tạo cơ sở để hình thành, nuôi dưỡng, bảo vệ và phát triển những giá trị con người, gía trị xã hội với những chuẩn mực tốt đẹp. Nhưng đây thực sự là một quá trình không đơn giản vì nó gắn với trình độ phát triển của xã hội trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế .
Trên thực tế, trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng mạnh mẽ và sâu rộng, quá trình phát triển văn hóa và con người đang diễn ra sự đan xen của rất nhiều quá trình, có mâu thuẫn với nhau, có hợp lực với nhau:
– Quá trình hội nhập, “học hỏi”, thẩm thấu, giao thoa, tích hợp giữa các gía trị.
– Quá trình cạnh tranh, đấu tranh, “va đập”, “xâm lăng” (giữa cái cũ và cái mới, giữa truyền thống và hiện đại, giữa các nền văn hóa, giữa các quốc gia…).
– Quá trình nảy sinh, ra đời các giá trị mới từ chính điều kiện và nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội (như lối sống, kỹ năng sống công nghiệp thời kinh tế thị trường, công nghệ thông tin và hội nhập quốc tế…).
– Hình thành các giá trị quốc tế, nhân loại.
Các quá trình này đòi hỏi một cách tiếp cận mới, rất tổng hợp, khoa học, thực tiễn về phát triển văn hóa và con người Việt Nam trong giai đoạn mới.
3. Các mô hình kết hợp kinh tế và văn hóa trong kinh doanh, cung cấp dịch vụ
Sự kết hợp và tương tác lẫn nhau giữa văn hóa và kinh tế về thực chất là kết hợp và tương tác giữa các giá trị văn hóa và các giá trị kinh tế trong quá trình phát triển. Có rất nhiều cấp độ và mô hình kết hợp giữa các giá trị của hai lĩnh vực này, song về mặt thực tiễn có thể khái quát thành ba mô hình sau : Mô hình lấy hoạt động kinh tế và mục tiêu kinh tế làm cốt lõi; Mô hình lấy hoạt động văn hóa với mục tiêu kinh tế làm cốt lõi; Mô hình lấy hoạt động văn hóa và mục tiêu văn hóa làm cốt lõi. Cần nhận rõ bản chất và cơ chế tương tác giữa kinh tế và văn hóa trong các mô hình này.
Chiều tác động của văn hóa trong kinh tế
Như trên đã trình bày, văn hóa thuộc “tính thứ hai” so với kinh tế, nhưng không phải là hệ quả thụ động, một chiều; do tính độc lập tương đối và dưới tác động của quá trình phát triển kinh tế thị trường, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, mà sự tác động của văn hóa đối với kinh tế sẽ phức tạp và đa chiều. Trong xã hội hiện đại, văn hóa lại càng “thoát ra” mạnh hơn khỏi phạm vi “đời sống tinh thần” thuần túy. Văn hóa xâm nhập, tương tác vào tất các các lĩnh vực của đời sống xã hội (chính trị, kinh tế, giáo dục, khoa học – công nghệ, đối ngoại và hội nhập quốc tế…), không chỉ là những giá trị phát triển mà còn trở thành một phần thiết chế phát triển của các lĩnh vực đó. Với kinh tế mối quan hệ đó được thể hiện trong 3 dạng chủ yếu:
– Văn hóa là một yếu tố quan trọng trong xây dựng thể chế, thiết chế phát triển kinh tế, một định hướng cho mục tiêu phát triển kinh tế.
– Văn hóa là một động lực, công cụ để hỗ trợ – thúc đẩy phát triển kinh tế; và phát triển kinh tế tạo cơ sở nguồn lực và động lực phát triển văn hóa.
– Văn hóa trực tiếp trở thành một lĩnh vực kinh tế (thế giới nói tới “công nghiệp văn hóa”, “sản nghiệp văn hóa”, “kinh tế văn hóa”, “dịch vụ văn hóa”…).
Đây là những vấn đề rất mới và quan trọng, cần được nghiên cứu thấu đáo cả về lý luận và thực tiễn, nhất là khi xã hội đi vào phát triển kinh tế tri thức và xã hội thông tin.
Văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế – xã hội_Ảnh: Tư liệu
1)Tác động của văn hóa tới mục tiêu và chính sách phát triển kinh tế
Đây có thể là sự tác động của văn hóa tới sự phát triển kinh tế ở tầng vỹ mô (cao nhất), cũng như ở các chủ thể sản xuất kinh doanh. Ở đây các giá trị con người, giá trị xã hội thể hiện ở quyền, nghĩa vụ, lợi ích và cuộc sống của con người được xem xét và đặt vào vị trí như thế nào trong trọng tâm của các mục tiêu và chính sách phát triển kinh tế, vào việc hình thành các mục tiêu đó trong thể chế – cơ chế phát triển kinh tế. Điều này được thể hiện rất rõ trong tư duy và chính sách phát triển kinh tế hướng tới như thế nào trong việc thực hiện các giá trị con người và giá trị xã hội. Trên thực tế thường có ba xu hướng sau : Một là, khi nhận thức rõ tầm quan trọng của việc hướng tới thực hiện các gia trị con người và các giá trị xã hội, coi đó vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển (đương nhiên là cần phải phù hợp với điều kiện và trình độ phát triển của từng giai đoạn cụ thể), thì trong mục tiêu, cơ chế và chính sách phát triển kinh tế sẽ có sự kết hợp một cách hữu cơ với phát triển các vấn đề xã hội, mà trọng tâm là các giá trị con người, giá trị văn hóa. Hai là, xu hướng coi nhẹ các các mục tiêu giá trị con người, giá trị văn hóa, đặt các mục tiêu kinh tế (phát triển công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ…) tách biệt với các mục tiêu phát triển xã hội, đặt cao các mục tiêu phát triển kinh tế như là những mục đích tối thượng – tự thân. Xu hướng này kéo dài sẽ dẫn đến mâu thuẫn gay gắt giữa các vấn đề kinh tế và các vấn đề xã hội, làm giảm động lực nhân tố con người trong phát triển. Về điều này có thể liên hệ qua một ví dụ nhỏ : Việc quy hoạch và phát triển tràn lan các nhà máy thủy điện nhỏ ở nhiều nơi (vì mục tiêu tăng sản lượng điện), nhưng không tính tới và đảm bảo đầy đủ về lợi ích của người dân trong vùng liên quan, về môi trường sinh thái, về rừng …, gây ra những hệ quả nghiêm trọng, đã phải rà soát lại và bỏ ra khỏi quy hoạch hàng trăm công trình. Điều này còn thấy thể hiện ở những chính sách đầu tư ở tầm cao hơn. Ba là, xu hướng coi trọng việc đặt và thực hiện các mục tiêu xã hội cao hơn điều kiện và trình độ thực tế của nền kinh tế, thể hiện ở chế độ bao cấp cao và mang tính bình quân cho việc thực hiện các mục tiêu xã hội. Điều này, nhìn bề ngoài được thể hiện như là một tính ưu việt của xã hội; tuy nhiên nếu kéo dài có thể sẽ dẫn đến hai hệ quả : nguồn lực kinh tế của đất nước không đủ sức chịu đựng cho sự bao cấp như vậy, đầu tư cho phát triển sẽ giảm dần. Đồng thời, trong xã hội có thể sẽ hình thành “giá trị con người – giá trị xã hội” quen hưởng thụ được bao cấp cao hơn năng lực và cống hiến của mình, chính điều này cũng sẽ làm yếu đi động lực con người trong sự phát triển. Có thể nêu lên đây hai ví dụ cho xu hướng này: Ở Việt nam, chính sách xóa đói giảm nghèo rất ưu việt, song một số nơi thực hiện sự bao cấp bình quân cao và không có điều kiện kèm theo, vì vậy dẫn đến hiện tượng nhiều hộ, nhiều địa phương “không muốn thoát nghèo”. Còn ở Châu Âu, cuộc khủng hoảng nghiêm trọng về nợ công và thâm hụt ngân sách ở nhiều nước, có nhiều nguyên nhân, song trong đó có một nguyên nhân là các nước đó đã thực hiện các chính sách xã hội cao hơn so với nguồn lực thực tế, điều kiện và khả năng phát triển kinh tế của mình.
Như vậy, việc nhận thức cho đúng các mục tiêu về giá trị văn hóa, giá trị xã hội trong mỗi giai đoạn và việc đặt các mục tiêu đó gắn hữu cơ – biện chứng với mục tiêu, chiến lược, quy hoạch, cơ chế và chính sách phát triển kinh tế có một tầm quan trọng đặc biệt.
2)Tác động của văn hóa trong sản xuất kinh doanh:
Như trên đã trình bày, khi văn hóa phát triển xác lập được thành những thể chế, thiết chế mới, những giá trị con người, giá trị văn hóa, giá trị xã hội mới sẽ tác động trở lại đối với sự phát triển kinh tế và các lĩnh vực khác. Sự tác động này có thể mang tính thuận chiều hoặc ngược chiều : Khi những giá trị con người – giá trị văn hóa phù hợp với quy luật và cơ chế phát triển kinh tế khách quan sẽ có sự tác động cùng chiều và tạo nên động lực mạnh cho sự phát triển cả về kinh tế và xã hội. Ngược lại, khi các giá trị con người – giá trị văn hóa không phù hợp với quy luật và cơ chế phát triển kinh tế sẽ có tác động ngược chiều, làm suy yếu động lực phát triển cả về kinh tế và xã hội, thậm chí có thể còn dẫn tới những rối loạn xã hội. Có thể thấy điều này ở trong cơ chế HTX – Tập thể hóa trước đây, hình thành các giá trị con người và giá trị văn hóa của cơ chế đó, về bản chất là không phù hợp với quy luật kinh tế khách quan, đã đi đến mất động lực phát triển, làm cho nền nông nghiệp rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng trong những năm 1970 – 1980, phải đi đến giải thể. Khi chuyển sang xác định “Hộ nông dân là đợn vị kinh tế tự chủ” với các giá trị mới về vị thế của kinh tế hộ nông dân, về quyền của người nông dân như quyền làm chủ ruộng đất, tư liệu sản xuất và sản xuất kinh doanh…, và trên cơ sở phát triển kinh tế hộ nông dân để hình thành các hợp tác xã kiểu mới, phù hợp với bản chất của nền kinh tế nông nghiệp, đã tạo nên động lực mạnh mẽ – chủ yếu cho phát triển nông nghiệp, tạo nên những “kỳ tích” của nền nông nghiệp trong những thập kỷ qua (nhưng giờ đây lại đang đặt ra những vấn đề mới trong phát triển nông nghiệp) .
Trong quá trình phát triển kinh tế thị trường, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, vai trò của văn hóa kinh doanh, văn hóa quản trị doanh nghiệp đóng vai trò rất quan trọng đối với phát triển kinh tế. Ở đây sẽ diễn ra sự tương tác giữa các giá trị văn hóa và các giá trị kinh tế phước tạp và mang tính hai mặt. Một mặt, các mô hình quản trị kinh doanh mới, các hình thức tổ chức và phương pháp quản trị doanh nghiệp tiến tiến cùng với nguồn nhân lực chất lượng cao hơn từ các nước có nền công nghiệp tiên tiến hơn được đưa vào Việt nam với các các giá trị văn hóa kinh doanh mới (thông qua các doanh nghiệp FDI, doanh nghiệp liên doanh liên kết, qua các hợp đồng hợp tác kinh doanh, qua đào tạo nhân lực…). Đây là những giá trị văn hóa kinh doanh tiên tiến (như coi trọng xây dựng chiến lược phát triển dài hạn, xây dựng thương hiệu, chất lượng, hiệu quả, đổi mới công nghệ, trọng dụng nhân tài, văn hóa hội nhập quốc tế…) có tác dụng quan trọng đối với việc đổi mới và xây dựng nền quản trị kinh doanh của Việt Nam từng bước tiếp cận với chuẩn mực quốc tế. Nhưng đồng thời, khi khung khổ pháp lý của nước ta chưa đồng bộ, kém hiệu lực – hiệu quả, thì cũng bị các đối tác nước ngoài “đưa vào” những giá trị văn hóa kinh doanh tiêu cực như hiện tượng “chuyển giá” rất nghiêm trọng ở những doanh nghiệp FDI mà báo chí đã nêu, hay cách bắt lao động làm quá sức lại trả lương rất thấp ở không ít doanh nghiệp…Đồng thời, trong quá trình này không ít các giá trị văn hóa kinh doanh mang tính “chộp giật”, lừa đảo, cò con, thiếu trách nhiệm giải trình, trách nhiệm xã hội…của một nền sản xuất nhỏ còn đang tồn đọng đã có tác động tiêu cực lớn đến kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh, đến xây dựng nền văn hóa kinh doanh mới đáp ứng với yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế..
Phát triển văn hóa và con người trong bối cảnh từ một đất nước với nền sản xuất nông nghiệp tiểu nông, thủ công là chủ yếu, còn mang nặng dấu ấn của tồn đọng của xã hội phong kiến thực dân, từ một xã hội nhiều năm có chiến tranh sang xã hội hòa bình; chuyển đổi thể chế phát triển kinh tế – xã hội từ tập trung quan liêu bao cấp sang phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN; từ khép kín, đóng cửa sang hội nhập quốc tế toàn diện; từ mô hình phát triển chủ yếu theo chiều rộng sang mô hình phát triển theo chiều sâu… đang đứng trước rất nhiều cơ hội và thách thức. Trong đó nổi lên một trong những vấn đề trung tâm là hình thành và phát triển hệ giá trị xã hội, hệ giá trị con người như thế nào để tạo động lực cho sự phát triển kinh tế và xã hội. Trên thực tế đang tồn tại những nhận thức, quan niệm và thực tiễn rất khác nhau (được thể hiện ngay trong các cách đánh giá “tốt, xấu”, “tích cực, tiêu cực”, “chính đáng, không chính đáng”…). Có thể nêu lên một số thực trạng để thấy rõ hơn bản chất của vấn đề :Thứ nhất, đó là tệ nạn tham nhũng. Đảng, Nhà nước và toàn hệ thống chính trị đã nhận rõ mối nguy hại của tệ nạn này (coi là quốc nạn, giặc nội xâm), đã tổ chức những “binh chủng” hùng mạnh, đã ban hành nhiều cơ chế chính sách và giải pháp, nhưng kết quả và hiệu quả vẫn rất hạn chế, tệ nạn này vẫn đang rất nghiêm trọng và tạo ra những “giá trị văn hóa, giá trị con người, giá trị xã hội” tiêu cực , đang làm sói mòn lòng tin của nhân dân (mà lòng tin là một trong những giá trị cao nhất của văn hóa). Trên diễn đàn Quốc Hội kỳ họp này đã gióng lên những lời cảnh tỉnh : “nợ xấu lòng tin” và “tồn đọng trách nhiệm”; “liên minh ma quỷ đó khiến ngân khố quốc gia ngày càng bị bòn rút”; “xuất hiện tình trạng lãnh đạo các địa phương vận động các đại biểu Quốc Hội trước mỗi kỳ họp không chất vấn hay nói về tham nhũng”; “giờ đây đang có một thực trạng đáng lo ngại, đó là việc người dân đang vô cảm với công tác phòng chống tham nhũng”. Ở đây không đánh giá về công tác phòng chống tham nhũng, mà xét dưới giác độ văn hóa cho thấy rằng “giá trị xã hội” của tham nhũng đang còn tồn tại rất mạnh trong một lượng xã hội gắn với chức quyền (mà trong văn kiện của Đảng và Nhà nước nhận định là một bộ phận không nhỏ), lại được “bảo trợ” bởi những bất cập, yếu kém, sơ hở của hệ thống thiết chế chưa được hoàn thiện. “Giá trị xã hội” của tham nhũng đang chìa tay ra kết nhân duyên và thẩm thấu vào các lĩnh vực của đời sống xã hội, làm băng hoại những giá trị tốt đẹp của xã hội (khi nói về công tác tuyển dụng và đề bạt cán bộ, công chức, đến Chủ tịch Quốc Hội Nguyễn Sinh Hùng phải thốt lên không tham nhũng lấy gì mà chạy chức, hiện nay tiêu cực, “bôi trơn”, chạy chọt ở khâu nào cũng có; hay như trong điều tra của Thanh tra Chính phủ vừa công bố có đến 70 % doanh nghiệp phải chủ động đưa hối lộ). Nhưng rất tiếc là những thiết chế đặt ra và thực thi chưa đủ mạnh để ngăn chặn và đẩy lùi các “gia trị tham nhũng”, và những giá trị tiêu cực này đang ảnh hưởng và tác động rất xấu đến kết quả và hiệu quả của nền kinh tế, làm suy yếu nghiêm trọng động lực phát triển. Trong kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XIII, khi trả lời về nợ công cao, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nêu trong đó có nguyên nhân sử dụng kém hiệu quả và tham nhũng. Thứ hai, đó là thực trạng chất lượng nguồn nhân lực còn thấp. Điều này phản ánh những “khiếm khuyết” về giá trị văn hóa, giá trị con người và giá trị xã hội không chỉ trong kinh tế mà còn trong nhiều lĩnh vực xã hội. Thế giới đánh giá nguồn nhân lực Việt nam trẻ, dồi dào, thông minh, nhanh nhạy, tháo vát…, nhưng trước yêu cầu của lối sống công nghiệp lại đang bộ lộ nhiều yếu kém, bất cập, như ý thức và văn hóa nghề nghiệp yếu, kỷ luật lao động chưa cao, trình độ tay nghề thấp, khả năng vận dụng sáng tạo kiến thức đã học vào thực hành bị hạn chế, kỹ năng làm việc nhóm yếu, kỹ năng mềm còn nhiều hạn chế, năng suất lao động thấp (bình quân chỉ bằng 1/4 trung bình của các nước trong khối ASEAN) …Điều này không phải chỉ là hệ quả của một nền giáo dục còn nhiều yếu kém, bất cập mà giờ đây đang đứng trước yêu cầu phải đổi mới căn bản , toàn diện, mà còn là hệ quả của một tâm lý xã hội coi trọng “giá trị danh vọng” không gắn với gía trị lao động xã hội đích thực; đó cũng còn là hệ quả của một tâm lý xã hội và trong hệ thống cán bộ – công chức còn không ít “tiêu chí”coi trọng văn bằng chứng chỉ hơn là năng lực lao động thực tế. Những điều này đã làm “biến dạng” đi những định hướng về giá trị con người và giá trị xã hội. Những giá trị “méo mó” về con người, về nhân lực đó đã tác động tiêu cực lâu dài đến sự phát triển kinh tế, xã hội. Những điều nêu trên chỉ muốn nói rằng để xây dựng và hiện thực hóa được hệ giá trị xã hội và hệ giá trị con người đúng đắn, phù hợp và tốt đẹp, không đơn thuần nêu lên và mong muốn có những giá trị đó về mặt lý thuyết, không chỉ là giáo dục và thuyết phục về mặt đạo lý, dù rất quan trọng; Điều quan trọng là phải xây dựng được đồng bộ hệ thống các thiết chế công khai minh bạch, phù hợp, hiệu lực và hiệu quả trong tất cả các lĩnh vực, các mặt của đời sống xã hội, nhằm điều tiết các hoạt động của mọi người, mọi tổ chức kinh tế, xã hội, và của chính Nhà nước trong khuôn khổ của pháp luật, tạo cơ sở để hình thành, nuôi dưỡng, bảo vệ và phát triển những giá trị con người, gía trị xã hội với những chuẩn mực tốt đẹp. Nhưng đây thực sự là một quá trình không đơn giản vì nó gắn với trình độ phát triển của xã hội trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế .
Trên thực tế, trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng mạnh mẽ và sâu rộng, quá trình phát triển văn hóa và con người đang diễn ra sự đan xen của rất nhiều quá trình, có mâu thuẫn với nhau, có hợp lực với nhau:
– Quá trình hội nhập, “học hỏi”, thẩm thấu, giao thoa, tích hợp giữa các gía trị.
– Quá trình cạnh tranh, đấu tranh, “va đập”, “xâm lăng” (giữa cái cũ và cái mới, giữa truyền thống và hiện đại, giữa các nền văn hóa, giữa các quốc gia…).
– Quá trình nảy sinh, ra đời các giá trị mới từ chính điều kiện và nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội (như lối sống, kỹ năng sống công nghiệp thời kinh tế thị trường, công nghệ thông tin và hội nhập quốc tế…).
– Hình thành các giá trị quốc tế, nhân loại.
Các quá trình này đòi hỏi một cách tiếp cận mới, rất tổng hợp, khoa học, thực tiễn về phát triển văn hóa và con người Việt Nam trong giai đoạn mới.
3. Các mô hình kết hợp kinh tế và văn hóa trong kinh doanh, cung cấp dịch vụ
Sự kết hợp và tương tác lẫn nhau giữa văn hóa và kinh tế về thực chất là kết hợp và tương tác giữa các giá trị văn hóa và các giá trị kinh tế trong quá trình phát triển. Có rất nhiều cấp độ và mô hình kết hợp giữa các giá trị của hai lĩnh vực này, song về mặt thực tiễn có thể khái quát thành ba mô hình sau : Mô hình lấy hoạt động kinh tế và mục tiêu kinh tế làm cốt lõi; Mô hình lấy hoạt động văn hóa với mục tiêu kinh tế làm cốt lõi; Mô hình lấy hoạt động văn hóa và mục tiêu văn hóa làm cốt lõi. Cần nhận rõ bản chất và cơ chế tương tác giữa kinh tế và văn hóa trong các mô hình này.