Dựa vào đoạn truyện từ đầu đến truyện cũng đã trót qua rồi thay lời nhân vật Vũ nương hãy kể lại câu chuyện đó
0 bình luận về “Dựa vào đoạn truyện từ đầu đến truyện cũng đã trót qua rồi thay lời nhân vật Vũ nương hãy kể lại câu chuyện đó”
Tôi tên là Vũ Thị Thiết, quê ở Nam Xương, mọi người yêu quý hay gọi tôi là Vũ Nương. Tôi vốn con nhà nghèo khó nhưng được cha mẹ dạy bảo ân cần chu đáo nên người trong làng khen tôi tính tình thùy mị nết na lại thêm có tư dung tốt đẹp vì thế có bao nhiêu trai làng bám đuổi. Trong đó có chàng Trương Sinh con nhà hào phú. Và cuộc đời tôi cũng thay đổi từ đó.
Chàng đem lòng yêu mến bèn xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới tôi về làm vợ. Có lẽ, cuộc hôn nhân không môn đăng hộ đối này khiến cuộc sống của tôi gặp bao khó khăn. Có lẽ, số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến này chính là khổ cực biết bao!
Về nhà chồng chẳng được bao lâu, tôi cũng biết tính chồng đa nghi hay ghen với vợ nên tôi hết sức giữ gìn khuôn phép vợ chồng chưa từng xảy ra chuyện bất hòa. Vợ chồng tôi ăn ở êm ấm, lại sắp có đứa con đầu lòng nên càng vui mừng hạnh phúc biết bao. Nhưng cuộc sống không bao giờ như ta trong đời, giặc Chiêm bỗng xâm phạm bờ cõi, chồng tôi ít học nên bị bắt đi sung binh loại đầu, đoàn viên chưa được bao lâu đã phải chia lìa. Buổi tiễn đưa tôi chỉ biết rót chén rượu đầy bày tỏ nỗi lòng chỉ mong chàng bình yên trở về không cầu công danh, áo gấm.
Thời gian chẳng mấy trôi qua, đến ngày tôi sinh bé Đản, đứa con bé bỏng phần nào vơi bớt nỗi cô đơn nhớ mong chồng. Nhưng mẹ chồng tôi vì nhớ mong con trai mà càng ngày sức khỏe càng kém, tôi đã lấy lời khuyên lơn mẹ gắng ăn miếng cơm miếng cháo để chờ chồng về rồi cả thuốc thang lễ bái thần phật mong mẹ mau khỏe. Như mẹ tôi tuổi già lại có nhớ mong quá độ đã không qua nổi. Trước lúc mất bà còn trăn trối lại:
“Sau này trời giúp người lành, ban cho phúc trạch, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, mong ông xanh kia chẳng phụ con cũng như con đã chẳng nỡ phụ mẹ.”
Mẹ chồng mất, tôi hết lòng ma chay như với mẹ thân sinh vậy. Kể từ đó, tôi chỉ còn bé Đản. Thương con chưa gặp cha lần nào, tôi bèn nghĩ cách trỏ bóng trên tường mỗi tối rồi bảo con “Cha Đản lại đến kia kìa!”. Bé Đản ngây thơ tin là thật thường đùa vui cùng chiếc bóng.
Vậy là, thấm thoắt đã 3 năm, giặc Chiêm chịu rút về nước. May mắn biết bao khi thấy chồng bình an trở về. Vợ chồng gặp nhau mừng mừng tủi tủi, hạnh phúc như vỡ òa. Biết tin mẹ mất Trương Sinh rất buồn, chàng bèn bế con ra thăm mộ mẹ nhưng tôi chẳng ngờ đâu từ khi chàng trở về lại la mắng tôi không tiếc lời một mực bảo tôi hư thân mất nết không thủy chung với chàng. Tự dưng tai họa ở đâu ập xuống đầu, tôi ngỡ ngàng liền phân trần giải thích:
“Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng, vì có cái thú vui nghi gia nghi thất, ….., đâu còn thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa”.
Nhưng mọi thứ tôi nói đều không thể lọt tai chàng, họ hàng làng xóm bênh vực tôi chàng cũng không nghe. Tôi hỏi thì chàng lại giấu khiến tôi không biết làm sao để thanh minh nữa
Cuối cùng, chàng đuổi tôi ra khỏi nhà. Chẳng thể ngờ sau 3 năm chia cách, 3 năm ngóng trông, để rồi hạnh phúc mà tôi cố vun đắp giờ đây chẳng còn nữa. Tuyệt vọng cùng cực, tôi chẳng thiết gì nữa. Danh dự không còn liền để nước sông Trường Giang chứng giám tấm lòng trong sạch của mình, tôi gieo mình xuống sông tự vẫn.
Không nghĩ tới, nỗi oan khuất của tôi động lòng trời đất, các nàng tiên cá rẽ một đường nước đưa tôi xuống thủy cung của Linh Phi, tôi bèn an cư tại chốn này.
Trong một bữa tiệc Linh Phi khoản đãi người có ơn cứu mạng, không ngờ tôi gặp Phan Lang – người cùng làng với tôi và cũng là ân nhân của Linh Phi. Nghe Phan Lang kể tôi mới biết Trương Sinh đã thấu hiểu nỗi oan của tôi. Thì ra chàng hiểu lầm chỉ vì lời nói vô tư của con nhỏ, chỉ vì chàng đa nghi, ghen tuông hồ đồ mà khiến gia đình tôi ra nông nỗi này.
Phan Lang kể rằng nhà tôi giờ tan tác tiêu điều khiến tôi không thể cầm nước mắt dù vẫn rất giận chồng nhưng tôi vẫn quyết định tìm ngày về. Tôi nhờ Phan Lang mang chiếc hoa vàng cùng lời nhắn kêu Trương Sinh lập đàn giải oan bên bến Trường Giang.
Khi thấy chồng và con tôi thật sự muốn trở về nhưng người chết nào đâu có thể sống lại. Nỗi oan khuất được giải trừ, tôi chỉ được lên hiện loang loáng ở giữa dòng rồi biến mất. Chỉ thương con côi cút không có mẹ chăm nom, thương cho tình nghĩa phu thê chưa tròn.
Tôi chỉ mong rằng xã hội bất công này sẽ bị xóa bỏ, và từ câu chuyện cuộc đời của tôi để người đời lấy đó là bài học giữ gìn hạnh phúc. Hạnh phúc gia đình không chỉ được xây dựng trên cơ sở tình yêu mà nó còn phải ở cả sự tin tưởng và tôn trọng lẫn nhau.
Tôi tên là Vũ Thị Thiết, quê ở Nam Xương, mọi người yêu quý hay gọi tôi là Vũ Nương. Tôi vốn con nhà nghèo khó nhưng được cha mẹ dạy bảo ân cần chu đáo nên người trong làng khen tôi tính tình thùy mị nết na lại thêm có tư dung tốt đẹp vì thế có bao nhiêu trai làng bám đuổi. Trong đó có chàng Trương Sinh con nhà hào phú. Và cuộc đời tôi cũng thay đổi từ đó.
Chàng đem lòng yêu mến bèn xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới tôi về làm vợ. Có lẽ, cuộc hôn nhân không môn đăng hộ đối này khiến cuộc sống của tôi gặp bao khó khăn. Có lẽ, số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến này chính là khổ cực biết bao!
Về nhà chồng chẳng được bao lâu, tôi cũng biết tính chồng đa nghi hay ghen với vợ nên tôi hết sức giữ gìn khuôn phép vợ chồng chưa từng xảy ra chuyện bất hòa. Vợ chồng tôi ăn ở êm ấm, lại sắp có đứa con đầu lòng nên càng vui mừng hạnh phúc biết bao. Nhưng cuộc sống không bao giờ như ta trong đời, giặc Chiêm bỗng xâm phạm bờ cõi, chồng tôi ít học nên bị bắt đi sung binh loại đầu, đoàn viên chưa được bao lâu đã phải chia lìa. Buổi tiễn đưa tôi chỉ biết rót chén rượu đầy bày tỏ nỗi lòng chỉ mong chàng bình yên trở về không cầu công danh, áo gấm.
Thời gian chẳng mấy trôi qua, đến ngày tôi sinh bé Đản, đứa con bé bỏng phần nào vơi bớt nỗi cô đơn nhớ mong chồng. Nhưng mẹ chồng tôi vì nhớ mong con trai mà càng ngày sức khỏe càng kém, tôi đã lấy lời khuyên lơn mẹ gắng ăn miếng cơm miếng cháo để chờ chồng về rồi cả thuốc thang lễ bái thần phật mong mẹ mau khỏe. Như mẹ tôi tuổi già lại có nhớ mong quá độ đã không qua nổi. Trước lúc mất bà còn trăn trối lại:
“Sau này trời giúp người lành, ban cho phúc trạch, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, mong ông xanh kia chẳng phụ con cũng như con đã chẳng nỡ phụ mẹ.”
Mẹ chồng mất, tôi hết lòng ma chay như với mẹ thân sinh vậy. Kể từ đó, tôi chỉ còn bé Đản. Thương con chưa gặp cha lần nào, tôi bèn nghĩ cách trỏ bóng trên tường mỗi tối rồi bảo con “Cha Đản lại đến kia kìa!”. Bé Đản ngây thơ tin là thật thường đùa vui cùng chiếc bóng.
Vậy là, thấm thoắt đã 3 năm, giặc Chiêm chịu rút về nước. May mắn biết bao khi thấy chồng bình an trở về. Vợ chồng gặp nhau mừng mừng tủi tủi, hạnh phúc như vỡ òa. Biết tin mẹ mất Trương Sinh rất buồn, chàng bèn bế con ra thăm mộ mẹ nhưng tôi chẳng ngờ đâu từ khi chàng trở về lại la mắng tôi không tiếc lời một mực bảo tôi hư thân mất nết không thủy chung với chàng. Tự dưng tai họa ở đâu ập xuống đầu, tôi ngỡ ngàng liền phân trần giải thích:
“Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng, vì có cái thú vui nghi gia nghi thất, ….., đâu còn thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa”.
Nhưng mọi thứ tôi nói đều không thể lọt tai chàng, họ hàng làng xóm bênh vực tôi chàng cũng không nghe. Tôi hỏi thì chàng lại giấu khiến tôi không biết làm sao để thanh minh nữa
Cuối cùng, chàng đuổi tôi ra khỏi nhà. Chẳng thể ngờ sau 3 năm chia cách, 3 năm ngóng trông, để rồi hạnh phúc mà tôi cố vun đắp giờ đây chẳng còn nữa. Tuyệt vọng cùng cực, tôi chẳng thiết gì nữa. Danh dự không còn liền để nước sông Trường Giang chứng giám tấm lòng trong sạch của mình, tôi gieo mình xuống sông tự vẫn.
Không nghĩ tới, nỗi oan khuất của tôi động lòng trời đất, các nàng tiên cá rẽ một đường nước đưa tôi xuống thủy cung của Linh Phi, tôi bèn an cư tại chốn này.
Trong một bữa tiệc Linh Phi khoản đãi người có ơn cứu mạng, không ngờ tôi gặp Phan Lang – người cùng làng với tôi và cũng là ân nhân của Linh Phi. Nghe Phan Lang kể tôi mới biết Trương Sinh đã thấu hiểu nỗi oan của tôi. Thì ra chàng hiểu lầm chỉ vì lời nói vô tư của con nhỏ, chỉ vì chàng đa nghi, ghen tuông hồ đồ mà khiến gia đình tôi ra nông nỗi này.
Phan Lang kể rằng nhà tôi giờ tan tác tiêu điều khiến tôi không thể cầm nước mắt dù vẫn rất giận chồng nhưng tôi vẫn quyết định tìm ngày về. Tôi nhờ Phan Lang mang chiếc hoa vàng cùng lời nhắn kêu Trương Sinh lập đàn giải oan bên bến Trường Giang.
Khi thấy chồng và con tôi thật sự muốn trở về nhưng người chết nào đâu có thể sống lại. Nỗi oan khuất được giải trừ, tôi chỉ được lên hiện loang loáng ở giữa dòng rồi biến mất. Chỉ thương con côi cút không có mẹ chăm nom, thương cho tình nghĩa phu thê chưa tròn.
Tôi chỉ mong rằng xã hội bất công này sẽ bị xóa bỏ, và từ câu chuyện cuộc đời của tôi để người đời lấy đó là bài học giữ gìn hạnh phúc. Hạnh phúc gia đình không chỉ được xây dựng trên cơ sở tình yêu mà nó còn phải ở cả sự tin tưởng và tôn trọng lẫn nhau.