Em viết một bài không quá 1000 từ (theo thể bình luận, nêu cảm nghĩ, cảm tưởng…) của em về về Tổng đốc thành Hà Nội Nguyễn Tri Phương.
GIÚP MÌNH VỚI !!!!!!
Em viết một bài không quá 1000 từ (theo thể bình luận, nêu cảm nghĩ, cảm tưởng…) của em về về Tổng đốc thành Hà Nội Nguyễn Tri Phương.
GIÚP MÌNH VỚI !!!!!!
Nguyễn Tri Phương là vị Tổng chỉ huy quân đội triều Nguyễn chống giặc Pháp xâm lược trên khắp ba miền đất Việt như ở mặt trận Đà Nẵng (1858), Gia Định (1861) và Hà Nội (1873). Ở mặt trận nào ông cũng thể hiện vai trò chỉ huy mưu lược và dũng cảm trước kẻ thù xâm lược. Do đó, qua ba triều vua Nguyễn (Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức), ông được thăng nhiều chức vị quan trọng như: Năm Quý Mùi (1823), vua Minh Mạng đề bạt ông làm Điển bộ (Bí thư ở Nội điện), năm sau thăng Tu soạn, rồi Thừa chỉ ở Nội các. Hai năm sau thăng Thị độc, Thị giảng học sĩ; năm 1831 thăng Hồng Lô tự khanh.
Năm 1832, ông được sung vào phái bộ sang Trung Quốc về việc thương mại. Năm 1835, Nguyễn Tri Phương nhận lệnh vua Minh Mạng vào Gia Định cùng Trương Minh Giảng bình định các vùng đất mới khai hoang. Việc thành công ông được thăng hàm Thị lang.
Năm 1840, ông được bổ làm Tuần phủ Quảng Nam – Quảng Ngãi, trông coi bố phòng cửa biển Đà Nẵng. Công việc hoàn thành tốt đẹp, ông được triệu về kinh thăng Tham tri bộ Công; sau lại được vua Thiệu Trị cử làm Tổng đốc An Hà (An Giang – Hà Tiên). Tại đây, ông dẹp tan các toán giặc cướp nước ngoài vào quấy phá. Sau đó, ông được cải bổ làm Tổng đốc Long Tường (Vĩnh Long và Định Tường) kiêm Khâm sai quân thứ đại thần, Hiệp Biện Đại học sĩ rồi được thưởng danh hiệu “An Tây trí dũng tướng”.
Năm 1845, ông cùng với Doãn Uẩn đánh bại quân Xiêm La của tướng Bodin, bình định Cao Miên, ổn định hoàn toàn vùng biên giới Tây Nam thuộc miền Tây Nam bộ.
Tháng 5 năm 1847, ông được triệu về kinh, thăng hàm Chánh Hiệp biện Đại học sĩ, lãnh Thượng thư bộ Công đại thần Cơ mật viện, tước Tráng Liệt tử và được ban một Ngọc bài có khắc bốn chữ “Quân kỳ thạc phụ”, được chép công trạng vào bia đá ở Võ miếu (Huế). Năm 1848, vua Tự Đức phong tước cho ông là Tráng Liệt bá.
Năm 1850, ông được sung chức Khâm sai Tổng thống Quân vụ Đại thần các tỉnhGia Định, Biên Hòa, Vĩnh Long, Định Tường, An Giang, Hà Tiên. Năm 1853, ông được thăng lên chức Điện hàm Đông các Đại học sĩ, rồi lãnh chức Kinh lược sứ Nam Kỳ. Trong thời gian này, ông có công lập được nhiều đồn điền, khai khẩn đất hoang, dân cư ở địa phương được an cư lập nghiệp.
Năm Mậu Ngọ (1858), thực dân Pháp bắt đầu đánh chiếm Đà Nẵng. Vua Tự Đức cử Nguyễn Tri Phương làm Quân thứ Tổng thống đại thần trực tiếp chỉ huy quân đội chống giặc. Với vũ khí tối tân, Pháp đã uy hiếp và phá hủy một số lớn đồn lũy của ta, ông bị triều đình giáng cấp nhưng vẫn lưu tại chức. Năm 1860, ông được sung chức Gia Định quân thứ, Thống đốc quân vụ cùng với Tham tán đại thần Phạm Thế Hiển trông coi việc quân sự ở miền Nam. Tại đây ông xây dựng đại đồn Chí Hòa để chống giặc Pháp xâm lược. Ngày 25-10-1861, Pháp công phá đại đồn. Nguyễn Tri Phương đã chỉ huy quân lính chống cự quyết liệt nhưng rồi ông bị thương, đại đồn thất thủ, Gia Định bị giặc chiếm. Ông bị cách chức xuống làm Tham tri, qua năm sau được khôi phục làm Binh bộ Thượng thư vào Nam Kỳ cứu vãn tình hình.
Tên cũ của ông là Nguyễn Văn Chương, tự Hàm Trinh, hiệu Đồng Xuyên. Ông sinh ngày 21/7/1800 (Canh Thân), quê ở làng Đường Long (Chí Long), tổng Chánh Lộc, huyện Phong Điền, phủ Thừa Thiên (nay là làng Chí Long, xã Phong Chương, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế). Nguyễn Tri Phương xuất thân trong một gia đình làm nông nghiệp và làm nghề thợ mộc. Cha ông là Nguyễn Văn Đảng – một nhà nho tính tình chất phác, đôn hậu, thường cứu giúp những người nghèo khổ trong xóm làng nên được nhiều người yêu mến và quý trọng.
Năm Canh Tuất 1850, vua Tự Đức phê chuẩn cải tên ông là Nguyễn Tri Phương. Từ đó Nguyễn Tri Phương trở thành tên chính của ông. Tuy ông không có danh vị học vấn khoa bảng như các vị đại thần khác, nhưng nhờ ý chí tự lập và tinh thần yêu nước sâu sắc nên ông đã làm nên sự nghiệp lớn cho giang sơn, Tổ quốc.Nguyễn Tri Phương là vị Tổng chỉ huy quân đội triều Nguyễn chống giặc Pháp xâm lược trên khắp ba miền đất Việt như ở mặt trận Đà Nẵng (1858), Gia Định (1861) và Hà Nội (1873). Ở mặt trận nào ông cũng thể hiện vai trò chỉ huy mưu lược và dũng cảm trước kẻ thù xâm lược. Do đó, qua ba triều vua Nguyễn (Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức), ông được thăng nhiều chức vị quan trọng như: Năm Quý Mùi (1823), vua Minh Mạng đề bạt ông làm Điển bộ (Bí thư ở Nội điện), năm sau thăng Tu soạn, rồi Thừa chỉ ở Nội các. Hai năm sau thăng Thị độc, Thị giảng học sĩ; năm 1831 thăng Hồng Lô tự khanh.
Năm 1832, ông được sung vào phái bộ sang Trung Quốc về việc thương mại. Năm 1835, Nguyễn Tri Phương nhận lệnh vua Minh Mạng vào Gia Định cùng Trương Minh Giảng bình định các vùng đất mới khai hoang. Việc thành công ông được thăng hàm Thị lang.Năm 1840, ông được bổ làm Tuần phủ Quảng Nam – Quảng Ngãi, trông coi bố phòng cửa biển Đà Nẵng. Công việc hoàn thành tốt đẹp, ông được triệu về kinh thăng Tham tri bộ Công; sau lại được vua Thiệu Trị cử làm Tổng đốc An Hà (An Giang – Hà Tiên). Tại đây, ông dẹp tan các toán giặc cướp nước ngoài vào quấy phá. Sau đó, ông được cải bổ làm Tổng đốc Long Tường (Vĩnh Long và Định Tường) kiêm Khâm sai quân thứ đại thần, Hiệp Biện Đại học sĩ rồi được thưởng danh hiệu “An Tây trí dũng tướng”.
Năm 1845, ông cùng với Doãn Uẩn đánh bại quân Xiêm La của tướng Bodin, bình định Cao Miên, ổn định hoàn toàn vùng biên giới Tây Nam thuộc miền Tây Nam bộ.
Tháng 5 năm 1847, ông được triệu về kinh, thăng hàm Chánh Hiệp biện Đại học sĩ, lãnh Thượng thư bộ Công đại thần Cơ mật viện, tước Tráng Liệt tử và được ban một Ngọc bài có khắc bốn chữ “Quân kỳ thạc phụ”, được chép công trạng vào bia đá ở Võ miếu (Huế). Năm 1848, vua Tự Đức phong tước cho ông là Tráng Liệt bá.
Năm 1850, ông được sung chức Khâm sai Tổng thống Quân vụ Đại thần các tỉnhGia Định, Biên Hòa, Vĩnh Long, Định Tường, An Giang, Hà Tiên. Năm 1853, ông được thăng lên chức Điện hàm Đông các Đại học sĩ, rồi lãnh chức Kinh lược sứ Nam Kỳ. Trong thời gian này, ông có công lập được nhiều đồn điền, khai khẩn đất hoang, dân cư ở địa phương được an cư lập nghiệp.