GIÚP MÌNH VỚI MÌNH ĐANG CẦN GẤP!!!!! Phân tích 4 khổ thơ đầu bài bếp lửa từ đó nêu vai trò tình thân trong gia đình. ( KHÔNG CHÉP MẠNG)

GIÚP MÌNH VỚI MÌNH ĐANG CẦN GẤP!!!!!
Phân tích 4 khổ thơ đầu bài bếp lửa từ đó nêu vai trò tình thân trong gia đình.
( KHÔNG CHÉP MẠNG)

0 bình luận về “GIÚP MÌNH VỚI MÌNH ĐANG CẦN GẤP!!!!! Phân tích 4 khổ thơ đầu bài bếp lửa từ đó nêu vai trò tình thân trong gia đình. ( KHÔNG CHÉP MẠNG)”

  1. Bằng Việt thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Ông viết bài thơ Bếp lửa vào tuổi 19, đó là năm 1963 khi còn là sinh viên đang học đại học ở nước ngoài.

    Cảm xúc dào dạt, lời thơ đẹp, giọng thơ thiết tha bồi hồi, hình tượng thơ độc đáo, sáng tạo, đặc sắc, đó là ấn tượng của nhiều người khi đọc bài thơ Bếp lửa .

    Có 41 câu thơ, phần lớn là thơ 8 chữ (31 câu), còn có 7 câu thơ thất ngôn và 3 câu thơ 9 tiếng. Tất cả đều kết hợp một cách hài hòa, phong phú vần điệu, đọc lên, ngâm lên nghe rất thích, rất thú vị.

    Nhắc lại kí ức tuổi thơ một thời gian khổ – đói nghèo, chiến tranh, loạn lạc – qua hình tượng bếp lửa, ngọn lửa, đứa cháu ca ngợi đức hi sinh, sự tần tảo và tình thương bao la của bà, đồng thời nói lên lòng biết ơn bà, thương nhớ bà khôn nguôi.

    Ba câu thơ đầu nói về bếp lửa và lòng cháu thương bà. Bếp lửa được nhóm lên trong sương sớm, ngọn lửa “chờn vờn”rung rinh, hắt ánh sáng lên tường nhà, liếp cửa. Bếp lửa ấm áp “nồng đượm” ấy còn mang tình thương chở che, ôm ấp, “ấp iu” của lòng bà. Bếp lửa của bà là bếp lửa của một cuộc đời đã trải qua “biết mấy nắng  mưa”, nghèo khổ và vất vả. Nghĩ về bếp lửa, nhớ về bếp lửa gia đình, mà đứa cháu thương bà khôn xiết kể.

    Hai câu đầu song hành làm hiện lên hình ảnh bếp lửa của bà. Các chữ: “ấp iu nồng đượm”, “chờn vờn” rất hình tượng, gợi tả; chữ “thương”dùng thật đắt qua vần thơ cảm thán, làm cho cảm xúc lan tỏa, thấm sâu vào hồn người:

    Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

    Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

    Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.

    Năm câu thơ tiếp theo, tác giả nhắc đi nhắc lại: “mùi khói”, “khói hun”, đã làm “nhèm mắt cháu”, làm cho “sống mũi còn cay”đến tận bây giờ. Kỉ niệm thời thơ bé khi “lên bốn tuổi”, kỉ niệm một thời đen tối, đói khổ. Đó là năm “đói mòn đói mỏi”, năm Ất Dậu 1945. khi người chết đói như ngả rạ. Giọng thơ trĩu xuống, nao nao lòng ta:

    Lên bốn tuổi cháu dã quen mùi khói

    Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi

    Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy.

    Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu

    Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!.

    Cái vị xay xè của khói hun nơi bếp lửa những nhà nghèo sẽ mãi mãi bám lấy bao tâm hồn tuổi thơ; cho dù năm tháng trôi qua nhưng kí ức ấy trở thành một vết thương lòng đâu dễ nguôi ngoai.

    Đoạn thơ thứ ba gồm có 11 câu, nhắc lại một vài kỉ niệm sâu sắc về bà trong suốt thời gian “Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa”. Thật là hồn nhiên và trong sáng khi nhà thơ tâm tình với chim tu hú. Chim tu hú kêu trong những ngày hè, khi trái vải đã chín đỏ cành. Tiếng chim tu hú là âm thanh đồng quê nghe thật tha thiết. Tiếng chim tu hú trong bài thơ là một sáng tạo của Bằng Việt khi nói về bà:

    Tu hú kêu trên những cánh đồng xa

    Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà

    Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế

    Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!

    Quá khứ và hiện tại đồng hiện. Tiếng chim tu hú trở thành một mảnh tâm hồn tuổi thơ. Cháu thương bà vất vả, lo toan, biết ngỏ cùng ai. Chỉ có thể tâm tình với chim tu hú. Nhẹ trách mà thương nhiều:

    Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà

    Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?.

    cho mk xin hay nhất ạ

    Bình luận

Viết một bình luận