Hãy đóng vai nhân vật Trương Sinh kể lại tác phẩm ” Chuyện người con gái Nam Xương “của Nguyễn Dữ
mình đang cần gấp, nhất định vote 5 sao và bình chọn ctlhn
Hãy đóng vai nhân vật Trương Sinh kể lại tác phẩm ” Chuyện người con gái Nam Xương “của Nguyễn Dữ
mình đang cần gấp, nhất định vote 5 sao và bình chọn ctlhn
Khi bóng hình Vũ Nương dần dần mờ khuất trong sương khói mịt mờ, hàng xóm dần tản về hết. Bến sông lại vắng lặng như tờ. Tôi vẫn ngồi đó giờ lâu. Bây giờ, mong muốn nàng trở về cũng đâu thể được nữa. Tất cả cũng chỉ tại tôi quá ích kỉ, hành động hồ đồ, mù quáng, thiếu suy nghĩ mà gây ra nông nỗi này.
Tôi sinh ra trong một gia đình hào phú. Cha tôi mất sớm, mẹ tôi tuổi già sức yếu nhưng gia sản vẫn còn sung túc. Tôi ỷ lại gia thế, từ nhỏ đã không chăm lo học hành gì. Đến tuổi trưởng thành, mẹ tôi muốn có cháu bế, lại lo có người nối dõi tông đường. Thương mẹ, tôi cũng lo tìm người hợp ý, xây dựng gia đình cho êm ấm cửa nhà. Nghe làng bên có một người con gái họ Vũ, người xinh đẹp, lại nết na nhu mì, lễ nghĩa hết mực, tôi lần sang hỏi thăm. Gặp người ưng ý, tôi liền về xin mẹ trăm đồng bạc sang hỏi cưới nàng về làm vợ. Mẹ tôi từ ngày có con dâu cũng vui lắm. Bà trở nên tươi trẻ hẳn lên,suốt ngày cùng con chăm lo trong ngoài, hết sức viên mãn. Vợ tôi biết tính tôi gia trưởng nên cũng hết sức giữu gìn khuôn phép, hiếu thuận với mẹ, chưa lúc nào vợ chồng trở nên thất hòa. Có nàng chăm lo gia đình, tôi hết sức yên tâm.
Hạnh phúc chưa được bao lâu, năm ấy, giặc Chiêm Thành xâm lấn biên cương. Tôi tuy là con một nhưng cũng có tên trong danh sách phải tòng quân. Mẹ tôi vì chuyện ấy mà hết sức lo lắng. Bà lo nhỡ có chuyện gì nơi biên ải xa xôi. Lại thêm chưa con chưa cháu, việc gia tiên ai sẽ đỡ đàn. Trước lúc tôi lên đường, bà tha thiết căn dặn không ham gì bã công danh, chỉ cần vẹn toàn trở về là bà an lòng. Vợ tôi đang có mang cũng sắp đến ngày sinh nở. Nàng buồn rầu rót chén rượu tiễn đưa. Chiến trận vô tình, đường tên mũi đạn biết đâu mà lần. Nàng cũng mong tôi được bình an, chứ chẳng mong gì phong ấn công hầu.
Hết lời, tiếng trống gọi quân thúc giục vang dội. Tôi gạt nước mắt lên đường. Biên cương xa xôi, vó ngựa hồng hoang rong ruổi. Kẻ thù hiểm nguy, nỗi nhớ nhà đằng đẵng. lại lo mẹ già tuổi mòn sức yếu, biết gắng gượng được bao lâu. Càng nghĩ, lòng tôi càng đau thương. Vợ tôi sau đó mươi ngày cũng hạ sinh con và đặt ten là Đản. Có cháu nội, chắc mẹ tôi cũng vơi bớt buồn đau.
Hai năm sau, giặc dữ quy hàng, tôi hồ hởi trở về. Gặp vợ con tôi vô cùng hạnh phúc như thể cuộc đời đã được tái sinh lần thứ hai. Nhưng, khi hay tin mẹ tôi vì ngày đêm mong nhớ con hao kiệt thân thể mà sớm qua đời, tôi vô cùng đau lòng.
Sáng hôm sau, tôi bế con ra đồng viếng một mẹ. Trong lúc cáu gắt, con tôi nói rằng có một người dàn ông hay tìm đến nhà mỗi đêm và rất thân thiết với vợ tôi. Lòng ghen mù quáng, thói ích kỉ, tính hồ đồ đã khiến tôi không kịp suy nghĩ đã buông lời sỉ nhục, đánh đạp vợ tôi tàn tệ cho hả giận. Không những thế, tôi còn đuổi nàng đi vì không muôn gia phong bị làm ô nhục. Nàng hết lời phân giải, hàng xóm cũng đến can ngăn, nhắc lại ân xưa của Vũ nương dối với mẹ tôi khi tôi còn ở nơi chiến trận, nhưng tôi nhất quyết không nghe.
Vũ Nương vợ tôi vì qua tủi nhục, đau đớn và tuyệt vọng, trong một đêm vắng lặng, nàng đã tìm đến cái chết trên dòng sông Hoàng Giang để chứng minh mình trong sạch. Hàng xóm khóc thương thảm thiết, nhiều người tìm xác nàng để an táng nhưng chẳng thấy. Tôi vì cả giận nên cũng chẳng động lòng.
Vũ Nương ra đi, căn nhà vắng lặng, đìu hiu. Lúc này tôi mới thấy hạnh phúc thật mong manh. Bé Đản một đem không có mẹ dỗ dành nên khóc nhiều, tôi dỗ thế nào cũng không chịu nín. Bỗng con tôi ngừng khóc, chỉ len bức vách và nói rằng cha Đản lại đến kìa. Tôi nhìn thay hướng tay con chỉ, giật mình thẳng thốt: “Trời ơi, lẽ nào….”
Thì ra, người đàn ông bí ẩn mà con tôi nói đến lúc trước chính là cái bóng ở trên tường. Lúc trước, mỗi khi con quấy khóc. Vũ nương thường hay chỉ lên cái bóng của mình ở trên bức vách và bảo rằng đó là cha cho con đỡ sợ mà không khóc nữa. Con trẻ ngây thơ, cứ tưởng là thật. Đến lúc ấy, tôi mới biết Vũ Nương bị hàm oan. Chính tôi đã gây ra cái chết oan nghiệt cho nàng, tôi hối hận lắm.
Thời gian lặng lẽ trôi qua, bỗng một hôm Phan Lang tìm đến nhà tôi khiến tôi sửng sốt. Số là Phan Lang đã mất tích trong một lần ra khơi, ai cũng cho rằng Phan đã chết, giờ xuất hiện trước mặt tôi, lẽ nào đây là hình ma bóng quỷ. nhưng không phải, đó là Phan Lang còn sống. Phan Lang kể rằng, lúc trước ông đánh bắt được một con rùa xanh. Đêm ấy, ông nằm mộng thấy một người đến cầu xin ông thả con rùa xanh ấy đi. Hôm sau, Phan Lang đã thẻ nó đi. Thì ra, con rùa xnah ấy chính là Linh Phi, vợ vua Thủy Tề, chúa chủ động rùa nơi cung nước. Trong trận bão khủng khiếp, Phan Lang tử nạn, xác trôi vào động rùa và được Linh Phi cứu sống. Trong bữa tiệc tiễn đưa, Phan Lang có gặp vợ tôi. Nàng kể cho Phan Lang nghe rằng nàng cũng được Linh Phi cứu và cho tá túc ở nơi ấy. Nàng còn nhờ Phan Lang về bảo lại với tôi rằng hãy lập đàn giải oan để linh hồn nàng được giải thoát.
Tôi nghe Phan Lang kể, lòng vẫn còn hoài nghi. Xưa nay chuyện ma quỷ đâu có lạ gì. Phan Lang chẳng lừa tôi để làm gì nhưng biết đâu lợi dụng việc này để khiến tôi đau khổ, dằn vặt. Nhưng khi Phan Lang đưa tôi cây trâm cài, vật đính ước khi xưa tôi tặng cho Vũ nương thì tôi mới tin. Nước mắt tôi chảy xuống. Thì ra, khi đã là hồn ma, Vũ Nương vẫn còn tha thiết vói gia đình, mong được minh chứng oan tình. Người phụ nữ hiền đức đến thế mà tôi đã nỡ phụ lòng nàng.
Ngay hôm sau, tôi mời thầy lập đàn tế lễ suốt ba ngày ba đêm trên bến sông, cầu mong linh hồn của Vũ nương được thanh thản. Đến buổi chiều hôm ngày thứ ba, mặt sông bỗng nhiên phủ khói mịt mờ. Từ trong đám sương dày, xuất hiện những chiếc thuyền mờ mờ ảo ảo. Tôi nhận ra Vũ Nương đang đứng trên chiếc thuyền hoa.Thấy tôi, từ xa nàng nói vọng vào lời từ biệt, mong tôi chăm con thật tốt và đừng tiếc thương cho nàng nữa. Lời nói vang vọng rồi nhỏ dần, nàng cùng chiếc thuyền hoa từ từ biến mất. Bến sông trở lại vắng lặng như tờ. Những người có mặt hôm ấy xót thương vô cùng, tiếng khóc thảm thương nhuốm cả không gian mênh mông.
Nhân tình thế thái đa đoan, mấy ai biết được chữ ngờ. Số tôi duyên phận hẩm hiu, lỗi là tại mình, đâu dám trách than. Chỉ mong Vũ Nương nơi cửu tuyền, linh hồn nàng được an ủi. Từ nay, tôi sẽ cố công chăm con thật tốt để không phụ lòng vợ tôi.
Tôi tên là Trương Sinh, con một nhà hào phú giàu có ở Nam Xương. Từ nhỏ, tôi đã chẳng mặn mà gì với việc học hành nên lúc lớn cũng chỉ sống dựa vào nếp nhà. Nhiều người nói tôi trăng hoa ong bướm nhưng tôi thì không nghĩ vậy, vì từ khi lớn lên đến giờ, tôi chỉ thích có mỗi một người đó là Vũ Thị Thiết người con gái nết na và tư dung tốt đẹp. Tôi thưa với mẹ. Tính ngày tháng tốt, mẹ sửa soạn trăm lạng vàng, sang nhà Vũ Nương xin cưới nàng cho tôi.
Tuy là con nhà nghèo nhưng nàng rất “công dung ngôn hạnh”, vì vậy cuộc sống lứa đôi của chúng tôi vô cùng hạnh phúc. Nhưng cuộc sum vầy chẳng được bao lâu, triều đình bắt lính đi đánh giặc, và tôi nằm trong số người phải đi tòng quân. Lúc đó, vợ tôi còn đang mang thai đứa con đầu lòng. Ngày chia tay bịn rịn, lưu luyến đầy nước mắt. Tôi cúi đầu thương cảm nhận lời dạy bảo của mẹ già. Tôi đau đớn nghe những lời li biệt của vợ rồi lên đường ra nơi biên ải. Trong lòng vừa thương nhớ vợ con, vừa lo lắng cho mẹ già.
Ở nơi chinh chiến, tôi không nguôi nhớ về ngôi nhà đơn sơ với mẹ già và người vợ trẻ. Mãi rồi cuộc chiến cũng chấm dứt, tôi được trở về quê. Vừa đặt chân đến nhà thì hay tin mẹ già đã mất, tôi đau đớn vô cùng. Cảnh nhà heo hút càng sầu thảm làm sao. Tôi bế con trai tôi – nó tên Đản ra thăm mộ mẹ. Đứa con xa lạ với người cha mới gặp cứ quấy khóc hoài. Tôi cố gắng dỗ con:
– Nín đi con, đừng khóc. Cha về, bà mất, lòng cha buồn khổ lắm rồi.
Đản lại ngây thơ hỏi lại tôi:
– Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói? Chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít.
Tôi ngạc nhiên khi nghe con nói thế, liền gạn hỏi thêm thì thằng bé nói:
– Trước đây có một người đàn ông, đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả.
Nghe lời con trẻ, tôi vừa đau lòng vừa tức giận. Vậy ra vợ tôi là người đàn bà hư hỏng, trong lúc chồng đi chiến trường thì ở nhà lăng loàn với người đàn ông khác. Thế mà khi ở chiến trường nguy hiểm kia tôi lại không ngừng nhớ tới nàng, mong ngày mong đêm để được về đoàn tụ với nàng.
Về đến nhà, cơn ghen mù quáng khiến tôi không nhịn được, tôi la um lên cho hả giận. Chẳng màng vợ hết lời thanh minh, hàng xóm hết lòng khuyên giải, tôi đuổi Vũ Nương đi. Biết tôi không tin vào sự thật, nàng đau đớn ôm con lần cuối cùng rồi ra khỏi nhà.
Chiều muộn hôm đó, tôi nghe tin nàng đã gieo mình xuống sông Hoàng Giang tự vẫn. Tuy vẫn giận nhưng tôi cũng mang lưới ra để vớt xác nàng nhưng vớt mãi suốt đêm cũng chẳng thấy đâu.
Một đêm vắng vẻ, tôi ngồi ôm con bên ngọn đèn mới thắp, lòng buồn rầu nghĩ đến Vũ Nương. Bỗng thằng bé reo lên:
– Cha Đản lại đến kia kìa!
Tôi vội hỏi đâu thì nó chỉ vào cái bóng của tôi trên vách nhà. Tôi chợt hiểu ra mọi chuyện. Nhưng mà trời ơi! Tôi đã làm gì thế này. Chính tôi đã giết vợ mình. Vợ tôi đã chết oan uổng vì sự hồ đồ, đa nghi, cả ghen, ích kỉ,… của chính tôi. Tôi hối hận quá. Nhưng đã muộn mất rồi.