Hãy làm ra những giá trị về vật chất lẫn tinh thần trong tư tưởng Hồ Chí Minh
0 bình luận về “Hãy làm ra những giá trị về vật chất lẫn tinh thần trong tư tưởng Hồ Chí Minh”
Từ lúc ra đi tìm đường cứu nước để giải phóng đồng bào, Hồ Chí Minh đã nghĩ đến một xã hội mới, một cuộc sống mới ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Muốn có cuộc sống mới đó, trước tiên phải giành lại độc lập cho dân tộc, kế đó phải xây dựng đất nước vững mạnh cả về chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa. Người chỉ rõ: Nước độc lập mà dân không được hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẵng có nghĩa lý gì! Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dặn lại: “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”(1).
I. Phát triển kinh tế không ngừng nâng cao đời sống vật chất của nhân dân:
Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta, Hồ Chí Minh đã đề ra nhiều luận điểm, tư tưởng chỉ đạo sáng suốt, có tính nguyên tắc. Đó là:
1. Phát triển kinh tế là nhiệm vụ quan trọng nhất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Nước ta là một nước thuộc địa nữa phong kiến. Kinh tế rất lạc hậu và gồm nhiều thành phần phức tạp, sức sản xuất chưa phát triển, đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân thấp kém. Do vậy, Người đã chỉ rõ: “… nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội,… có công nghiệp và nông nghệp hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài”(2).
2. Về cơ cấu kinh tế.
– Phát triển mạnh cả công công nghiệp và nông nghiệp. Người chỉ rõ: Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa có hai chân là công nghiệp và nông nghiệp, hai chân không đều nhau, không thể lớn mạnh được. Người giải thích rất rõ: Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa có hai chân là công nghiệp và nông nghiệp, hai chân không đều nhau, không thể lớn mạnh được. Người giải thích rất rõ:
Nông nghiệp phải phát triển mạnh để cung cấp đủ lương thực cho nhân dân; cung cấp đủ nguyên liệu (như bông, mía, chè…) cho nhà máy, cung cấp đủ nông sản (như lạc, đỗ, đay…) để xuất khẩu đổi lấy máy mới.
Công nghiệp phải phát triển mạnh để cung cấp đủ hàng tiêu dùng cần thiết cho nhân dân, trước hết là cho nông dân; cung cấp máy bơm nước, phân hóa học, thuốc trừ sâu… để đẩy mạnh nông nghiệp; và cung cấp dần máy cày, máy bừa cho các hợp tác xã nông nghiệp. Công nghiệp phát triển thì nông nghiệp mới phát triển. Cho nên công nghiệp và nông nghiệp phải giúp đỡ lẫn nhau và cùng nhau phát triển, như hai chân đi khỏe và đi đều thì tiến bước sẽ nhanh và nhanh chóng đi đến mục đích. Thực hiện liên minh công nông để xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm no sung sướng cho nhân dân.
– Công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là mục tiêu phấn đấu chung, là con đường no ấm thực sự của nhân dân ta.
Trong bài viết Con đường phía trước (ngày 20-01-1960), Người chỉ rõ nước ta vốn là một nước nông nghiệp lạc hậu. Năm 1959, trong sản xuất của miền Bắc, công nghiệp chỉ mới chiếm không đầy hai phần, còn nông nghiệp và thủ công nghiệp chiếm đến tám phần. Người đặt câu hỏi: Như vậy thì làm sao cho đời sống nhân dân thật dồi dào được? Và Người đã trả lời: “Đời sống nhân dân chỉ có thể thật dồi dào, khi chúng ta dùng máy móc để sản xuất một cách hật rộng rãi: dùng máy móc trong công nghiệp và trong nông nghiệp. Máy sẽ chắp thêm tay cho người, làm cho sức người tăng lên gấp trăm, nghìn lần và giúp người làm những việc phi thường.
Muốn có nhiều máy, thì phải mở mang các ngành công nghiệp làm ra máy, ra gang, thép, than, dầu…. Đó là con đường phải đi của chúng ta, con đường công nghiệp hóa nước nhà.
Hiện nay, chúng ta lấy sản xuất nông nghiệp làm chính. Vì muốn mở mang công nghiệp thì phải có đủ lương thực, nguyên liệu. Nhưng công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa vẫn là mục tiêu phấn đấu chung, là con đường no ấm thật sự của nhân dân ta”(1).
3. Về hình thức sở hữu và thành phần kinh tế.
– Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa phải tạo lập trên cơ sở chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất. Tuy nhiên, ở thời kỳ quá độ, nền kinh tế đó còn tồn tại bốn hình thức sở hữu chính: “+Sở hữu nhà nước tức là của toàn dân.
+ Sở hữu hợp tác xã tức là sở hữ tập thể của nhân dân lao động.
+ Sở hữu của người lao động riêng lẽ.
+ Một ít tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của nhà tư bản”(2).
Người chỉ rõ mục đích của chế độ ta là xóa bỏ các hình thức sở hữu không xã hội chủ nghĩa, làm cho nền kinh tế gồm nhiều thành phần phức tạp trở thành một nền kinh tế thuần nhất, dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữ tập thể.
– Về thành phần kinh tế: trong thời kỳ quá độ còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế. Hồ Chí Minh xác định: “2) Trong chế độ dân chủ mới, có năm loại kinh tề khác nhau:
A- Kinh tế quốc doanh (thuộc chủ nghĩa xã hội, vì nó là của chung của nhân dân).
B- Các hợp tác xã (nó là nửa chủ nghĩa xã hội, và sẽ tiến đến chủ nghĩa xã hội).
C- Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ (có thể tiến dần vào hợp tác xã, tức là nửa chủ nghĩa xã hội).
D- Tư bản của tư nhân.
E- Tư bản của Nhà nước (như Nhà nước hùn vốn với tư bản tư nhân để kinh doanh).
Trong năm loại ấy, loại A là kinh tế lãnh đạo và phát triển mau hơn cả. Cho nên kinh tế ta sẽ phát triển theo hướng chủ nghĩa xã hội chứ không theo hướng chủ nghĩa tư bản”(1).
Phải phát triển các thành phần kinh tế, phát triển kinh tế quốc doanh để tạo nền tảng cho kinh tế xã hội chủ nghĩa; khuyến khích kinh tế hợp tác xã với các hình thức đa dạng, nhấn mạnh các nguyên tắc tự nguyện, cùng có lợi và quản lý dân chủ, Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất cho họ, hướng dẫn và giúp đỡ họ cải tiến cách làm ăn. Đối với các nhà công thương, họ đã tham gia ủng hộ cách mạng dân tộc dân chủ thì sẵn sàng cải tạo, hướng họ hợp doanh với Nhà nước để góp phần xây dựng đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội, không xóa bỏ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và của cải khác của họ, hướng dẫn họ phục vụ cho quốc kế dân sinh phù hợp với kế hoạch Nhà nước.
4. Tăng gia sản xuất phải đi đôi với thực hành tiết kiệm trong sản xuất, trong tiêu dùng, tiết kiệm vật tư, thời gian, sức lao động. Đồng thời, phải chống tham ô, lãng phí, quang liêu là những “giặc nội xâm”, đồng minh với giặc ngoại xâm.
Người chỉ rõ: “Tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm là con đường đi đến xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội, xây dựng hạnh phúc cho nhân dân. Tăng gia là tay phải của hạnh phúc, tiết kiệm là tay trái của hạnh phúc”(2).
II. Không ngừng nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân.
1. Thấu hiểu sâu sắc chủ nghĩa Mác – Lênin, tinh hoa văn hóa thế giới và các giá trị văn hóa dân tộc, Hồ Chí Minh đã nhận rõ vị trí đặc biệt quan trọng và ý nghĩa lớn lao của văn hóa.
Từ năm 1943, Hồ Chí Minh đã nêu ra định nghĩa về văn hóa: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”(1).
Cùng với việc chỉ rõ nội hàm của văn hóa, Người phân tích và luôn nhấn mạnh mối quan hệ biện chứng giữa văn hóa và cơ sở hạ tầng, văn hóa với kinh tế, chính trị, xã hội: “Văn hóa là một kiến trúc thượng tầng; những cơ sở hạ tầng của xã hội có kiến thiết rồi, văn hóa mới đủ điều kiện phát triển được”. Mặt khác, Người lại khẳng định nhiều lần ý nghĩa, vai trò của văn hóa là động lực của sự phát triển kinh tế, phát triển xã hội, “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”.
Từ cách nhìn nhận rất biện chứng rên, Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, trong công cuộc kiến thiết nước nhà, có bốn vấn đề cùng phải chú ý đến, cùng phải coi trọng ngang nhau là chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội. Đồng thời, trong quan hệ của bốn thành tố trên, Hồ Chí Minh chỉ rõ vai trò quyết định của chính trị và kinh tế đối với sự phát triển của văn hóa.
Khi dân tộc và đất nước còn bị nô lệ thì văn hóa cùng chung số phận nô lệ đó, vì vậy, theo Hồ Chí Minh, phải tiến hành cách mạng chính tị trước để giải phóng chính trị, giải phóng xã hội, từ đó, giải phóng văn hóa, mở đường cho văn hóa phát triển. “Xưa kia chính trị bị áp bức, nền văn hóa của ta vì thế không nảy sinh được”.
Khi đất nước đã được giải phóng, bước vào thời kỳ xây dựng, Hồ Chí Minh chỉ rõ kinh tế là nền tảng của việc xây dựng văn hóa, vì vậy phải xây dựng kinh tế làm cơ sở hạ tầng cho sự phát triển văn hóa “Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế và văn hóa. Vì sao không nói phát triển văn hóa và kinh tế? Tục ngữ ta có câu: Có thực mới vực được đạo; vì thế kinh tế phải đi trước. Phát triển kinh tế và văn hóa để nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân ta”(2).
Văn hóa thuộc kiến trúc thượng tầng, gắn bó hữu cơ với cơ sở hạ tầng, vì thế, từ trong bản chất và tuân thủ quy luật chung, văn hóa ở trong kinh tế và chính trị, văn hóa không thể đứng ngoài, mà có nhiệm vụ góp phần thúc đẩy xây dựng và phát triển kinh tế, phục vụ sự nghiệp cách mạng của nhân dân, trở thành một động lực to lớn, chủ động tác động tích cực trở lại đối với kinh tế và chính trị. “Văn hóa, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị”(3). nguyên lý này hoàn toàn khôg phải là sự áp đặt đối với văn hóa – văn nghệ, mà chính là bản chất xã hội của văn hóa, là một quy luật khách quan của mối quan hệ biện chứng trên.
Từ luận điểm cơ bản trên, ngay trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Hồ Chí Minh đã rút ra một kết luận có ý nghĩa cực kỳ quan trọng nhằm định hướng cho toàn bộ sự phát triển của văn hóa nước ta: Tham gia cách mạng là con đường duy nhất, là nhu cầu tất yếu của văn hóa – văn nghệ và những người hoạt động, sáng tạo trên lĩnh vực này. Rõ ràng là dân tộc bị áp bức thì văn nghệ cũng mất tự do. Văn nghệ muốn được tự do thì phải tham gia cách mạng. Tham gia cách mạng không chỉ để đóng góp tích cực vào tiến trình và thắng lợi của cuộc đấu tranh giải phóng, bảo vệ và xây dựng Tổ quốc, mà còn vì nhu cầu tồn tại và phát triển của bản thân văn nghệ, vì sự tự do chân chính của văn nghệ. Kết luận hiển nhiên, giản dị đó của Hồ Chí Minh thực sự có ý nghĩa lớn lao đối với văn hóa, văn nghệ nước ta gần 60 năm qua.
2. Tính chất, đặc trưng, chức năng của nền văn hóa mới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định nhiệm vụ xây dựng “một nền văn hóa mới” và chỉ rõ tính chắt, đặc trưng và chức năng chủ yếu của nền văn hóa đó.
a. Ngay sau ngày Quốc khánh 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho thành lập Ủy ban văn hóa lâm thời Bắc bộ. Tại buổi tiếp đại biểu của Ủy ban này ngày 7-9-1945, Hồ Chí Minh chỉ rõ: Bổn phận của các ngài là lãnh đạo tư tưởng quốc dân, đấu tranh cho độc lập và kiến thiết một nền văn hóa mới. Từ đó, tùy theo nhiệm vụ của từng giai đoạn cách mạng, Hồ Chí Minh và Đảng ta nhấn mạnh các tính chất, đặc trưng của nền văn hóa đó, và để phù hợp với tiến trình cách mạng, với kết quả tổng kết thực tiễn, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã từng bước điều chỉnh, bổ sung, hoàn chỉnh các quan điểm cơ bản của mình. Song, tựu trung, đó là nền văn hóa bao hàm các tính chất dân tộc, hiện đại và nhân văn để tạo nên một nền văn hóa mới đa dạng và thống nhất – nền văn hóa Việt Nanm tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (năm 1991) của Đảng đúc kết và khẳng định.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, yêu nước là nấc thang giá trị cao nhất của dân tộc Việt Nam và của nền văn hóa Việt Nam. Kế tục phẩm chất bền vững đó của văn hóa dân tộc trong quá khứ, nền văn hóa mới phải tiếp tục phát triển với những đặc trưng mới. Theo Hồ Chí Minh, đó chính là sự gắn bó mật thiết và trở thành một bộ phận của sự nghiệp cách mạng, là sự hài hòa giữa lý tưởng độc lập dân tộc với lý tưởng xã hội chủ nghĩa trong nền văn hóa đó, trở thành nội dung cốt lõi của nó trong thời kỳ mới. Như vậy, chứa đựng trong nền văn hóa mới của chúng ta, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, là những giá trị bền vững, cao quý và những tinh hoa của văn hóa và truyền thống dân tộc cùng với những giá trị mới được xây đắp và phát triển trong thời kỳ hiện đại của dân tộc ta. Có nghĩa là, tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là nhân tố và phẩm chất hòa quyện hữu cơ trong nền văn hóa, tạo nên tổng thể giá trị của nền văn hóa mới.
Về phẩm chất dân tộc, đậm đà bản sắc dân tộc của nền văn hóa mới, trước hết là nền văn hóa đó gốc rễ từ dân tộc, mang tâm hồn, diện mạo, đặc tính và cốt cách dân tộc. Đó là những giá trị bền vững và những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự lực tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân, gia đình, làng xã, Tổ quốc, lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý; đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; dũg cảm, thông minh trong chiến đấu, sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống; tình nghĩa thủy chung với người thân, bạn bè.
Trong rất nhiều bài nói, bài viết của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh ân cần nhắc nhở chúng ta phải giữ gìn và phát huy những truyền thống và bản sắc tốt đẹp ấy của dân tộc. Người khẳng định, văn hóa phải “lột cho hết tinh thần dân tộc”, “phát huy cốt cách dân tộc”… không chỉ ở chiều sâu của nội dung văn hóa mà còn thể hiện đậm đà trong các hình thức, phương thức biểu hiện nội dung đó.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, nói giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc không đồng nghĩa với dân tộc hẹp hòi, đóng cửa, khép kín và cũng hoàn toàn xa lạ với kiểu bắt chước, học đòi, lai căng để đánh mất đi cái độc đáo, cái đặc trưng của dân tộc mình. Phải biết kế thừa, phát huy có chọn lọc những truyền thống văn hóa tốt đẹp phù hợp với những điều kiện lịch sử mới, kiên quyết phê phán và loại bỏ những tập tục lạc hậu, cổ hủ, đủ bản lĩnh để mở rộng giao lưu với thế giới, tiếp thu có chọn lọc những cái hay, cái tốt đẹp, tiến bộ của văn hóa nhân loại, tỉnh táo chống lại sự xâm nhập của mọi thứ văn hóa độc hại… “Tây phương hay Đông phương có cái gì tốt, ta học lấy để tạo ra một nền văn hóa Việt Nam. Nghĩa là lấy kinh nghiệm tốt của văn hóa xưa và văn hóa nay, trau dồi cho văn hóa Việt Nam thật có tinh thần thuần túy Việt Nam”.
b. Nền văn hóa mới, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, phải là một nền văn hóa thấm sâu phẩm chất nhân văn và dân chủ, “hợp với tinh thần dân chủ”, mà trước hết là sự tôn trọng và yêu thương con người, góp phần cho sự phát triển toàn diện của con người, đặc biệt là bồi dưỡng nâng cao đời sống tinh thần, tư tưởng, tình cảm phong phú, cao đẹp của con người. Đây chính là sứ mệnh, là chức năng chủ yếu của văn hóa. Trong quan niệm của mình về văn hóa, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên nhấn mạnh một chức năng có vị trí đặc biệt của văn hóa là bám sát và thấu hiểu cuộc sống, miêu tả và khám phá con người, bảo vệ và khẳng định, góp phần trực tiếp xây dựng con người mới đang hình thành trong cuộc chiến đấu đầy hy sinh, gian khổ và vĩ đại vì sự ra đời và chiến thắng của xã hội mới. Thấu hiểu đặc trưng và sức mạnh riêng của văn hóa, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn có niềm tin sâu sắc về khả năng của văn hóa có thể và cần phải nuôi dưỡng, xây đắp cho con người nhữg lý tưởng cao quý, những tư tưởng và tình cảm lớn, những phẩm chất tốt đẹp cho con người để giúp con người vươn tới cái chân, cái thiện, cái mỹ và từ đó con người có năng lực và khát vọng không ngừng hoàn thiện bản thân. Quá trình tự hoàn thiện ấy chính là quá trình con người vươn lên cái tốt đẹp, cái tiến bộ và đấu tranh với cái xấu xa, đen tối, lạc hậu. Vai trò cao quý của văn hóa, với tư cách là động lực của sự phát triển, trước hết là thông qua chức năng chủ yếu và đặc trưng này của văn hóa. Hồ Chí Minh nhiều lần nhấn mạnh: Phải làm thế nào cho văn hóa vào sâu trong tâm lý của quốc dân, nghĩa là văn hóa phải sửa đổi được tham nhũng, được lười biếng, phù hoa, xa xỉ… văn hóa phải làm thế nào cho ai cũng có lý tưởng tự chủ, độc lập, tự do… làm thề nào cho mỗi người dân Việt Nam từ trẻ đến già, cả đàn ông và đàn bà ai cũng hiểu nhiệm vụ của mình và biết hưởng hạnh phúc của mình đáng được hưởng.
Nói đến văn hóa là nói đến phẩm chất, đến giá trị, đồng thời cũng là nói đến trình độ của con người. Nuôi dưỡng các phẩm chất, xây đắp các giá trị tinh thần, tư tưởng, tình cảm và nâng cao trình độ dân trí là những chức năng không thể tách rời của văn hóa. Theo yêu cầu của từng thời kỳ của cuộc đấu tranh cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên nhấn mạnh các nhiệm vụ lớn lao trên của văn hóa. “Chúng ta phải biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn hóa cao và đời sống tươi vui hạnh phúc”(1). Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định như vậy ngay khi đất nước ta kết thúc cuộc chếin tranh chống thực dân Pháp và miền Bắc bắt đầu bước vào thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chính từ quan điểm đó mà Người luôn đòi hỏi rất cao đối với chất lượng của hoạt động văn hóa, đáp ứng các nhu cầu đa dạng của con người – nhận thức, tiếp nhận, hưởng thụ văn hóa và nâng cao trình độ hiểu biết toàn diện của mình thông qua văn hóa, bằng văn hóa. Người nhắc nhở: Phong trào văn hóa có bề rộng, chưa có bề sâu, nặng về mặt giải trí mà còn nhẹ về mặt nâng cao tri thức của quần chúng. Sự nhắc nhở đó cách đây đã gần 40 năm, nhưng chúng ta thấy đó như là sự phê bình trực tiếp những thiếu sót, khuyết điểm của công tác văn hóa nước ta trong những tháng ngày gần đây nhất.
Chính do tính chất, đặc trưng và chức năng đặc biệt trên của văn hóa, theo lời dạy và chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cần phải làm mọi cách để phát huy tối đa sức mạnh của văn hóa làm cho các nhân tố văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực, trong mọi phương diện chính rị, kinh tế, xã hội, pháp luật, kỷ cương… và mọi quan hệ của con người với tự nhiên, xã hội và với chính mình…, biến văn hóa thành một nguồn lực nội sinh quan trọng của phát triển.
3. Văn hóa bao gồm nhiều lĩnh vực rộng lớn và phong phú.
Xét về đặc trưng của lĩnh vực hoạt động tinh thần, văn hóa gồm có văn hóa chính trị, văn hóa đạo đức, văn hóa gíao dục, văn hóa nghệ thuật, văn hóa pháp luật, văn hóa lao động, đời sống văn hóa cụ thể, văn hóa lối sống… Hồ Chí Minh đã quan tâm và có nhiều ý kiến sâu sắc về hầu hết các lĩnh vực đó của văn hóa. Xét về loại hình hoạt động cụ thể, chúng ta còn thấy Người đã đề cập và cho ý kiến chỉ đạo cụ thể từng loại hình, từ báo chí đến văn hóa nghệ thuật, từ khoa học đến giáo dục, từ đạo đức đến lối sống nếp sống, xây dựng đời sống mới, từ các hoạt động văn hóa quần chúng đến lĩnh vực sáng tạo nghệ thuật chuyên nghiệp, từ truyền thống văn hóa quá khứ đến văn hóa, nghệ thuật hiện đại, đương đại, từ cách nói, cách viết đến ngôn ngữ và chữ viết…
Điều đặc biệt quan trọng là, xuất phát từ sự am hiểu sâu sắc, toàn diện bản chất xã hội và đặc trưng của văn hóa nói chung, Hồ Chí Minh đã chỉ ra rất rõ ràng, sinh động, đầy sức thuyết phục các đặc thù và sức mạnh riêng của mỗi lĩnh vực, mỗi loại hình hoạt động văn hóa cụ thể, từ đó chỉ đạo chính xác, khoa học các quan điểm cơ bản nđối với từg lĩnh vực và hoạt động đó.
Ở đây chỉ xin nêu vắn tắt một vài dẫn chứng về lĩnh vực văn nghệ (được hiểu là văn học và các loại hình nghệ thuật).
Văn nghệ là biểu hiện tập trung nhất của văn hóa, là đỉnh cao của đời sống tinh thần, là hình ảnh của cốt cách, tâm hồn, đặc tính dân tộc. Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng văn nghệ Người đã khai sinh ra nền văn nghệ cách mạng và chính Người là ngọn cờ đầu, là người thầy, người chiến sĩ mở đường, tiên phong trong sáng tạo văn nghệ, cả thơ ca, truyện ký, kịch chính luận và lý luận văn nghệ.
Bằng cả cuộc đời mình Hồ Chí Minh đã đúc kết và khẳng định một chân lý, một quan điểm sâu sắc: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”, tác phẩm văn nghệ là vũ khí sắc bén trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng, xây dựng con người mới và xã hội mới.
Quan điểm trên đây của Hồ Chí Minh đã có một ý nghĩa đặc biệt to lớn và sâu sắc trong việc tập hợp, rèn luyện, xây dựng và phát triển một đội ngũ văn nghệ sĩ kiểu mới, làm cho họ trở thành những nghệ sĩ, chiến sĩ, chiến sĩ, nghệ sĩ, tự nguyện tham gia vào sự nghiệp cách mạng bằng tài năng và sự sáng tạo của mình. Để hoàn thành xuất sắc sứ mệnh của mình chiến sĩ, nghệ sĩ – Hồ Chí Minh thường xuyên căn dặn văn nghệ sĩ phải bồi dưỡng đồng thời cả phẩm chất và tài năng, hai nhân tố quyết định cho thành công trong hoạt động sáng tạo của mình “Phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, trước hết là công, nông, binh”.
Văn nghệ “cần hiểu thấu liên hệ và đi sâu vào đời sống của nhân dân”, gắn bó và am hiểu sâu thực tiễn đời sống lao động, sản xuất, chiến đấu, sinh hoạt, học tập và xây dựng cuộc sống mới để có thể phản ánh chân thật, sinh động thực tiễn ấy, “bày tỏ được tinh thần anh dũng và kiên quyết của quân và dân ta, đồng thời để giúp phát triển và nâng cao cho tinh thần ấy”.
Thực tiễn phong phú trong lao động và đấu tranh của nhân dân luôn luôn là nguồn sinh khí, nguồn nhựa sống vô tận cho sáng tạo văn học và nghệ thuật, chính vì thế, Hồ Chí Minh nêu lên yêu cầu văn nghệ sĩ phải “thật hòa mình với quần chúng”, gắn bó máu thịt với quà chúng, vì “chỉ có nhân dân mới nuôi dưỡng cho sáng tác của nhà văn bằng những nguồn nhựa sống. Còn nếu nhà văn quên điều đó – nhân dân cũng sẽ quên anh ta”(1).
Phải có những tác phẩm văn nghệ xứng đáng với thời đại mới của dân tộc, của đất nước, và các tác phẩm đó phải phản ánh cho hay, cho chân thật, cho hùng hồn sự nghiệp cách mạng của nhân dân, đó là một đòi hỏi, đồng thời là một nguyện vọng, mong chờ sâu xa của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp văn nghệ và đối với đội ngũ văn nghệ sĩ cách mạng của chúng ta. Sáng tác cho hay, cho chân thật là những yêu cầu tạo ra những giá trị về tư tưởng và nghệ thuật đối với tác phẩm văn nghệ. Theo Hồ Chí Minh, “ca tụng chân thật những người mới, việc mới” không đồng nghĩa với việc tô hồng hiện thực, tạo ra những hình ảnh xa rời đời sống hoặc lẩn tránh việc phê phán cái sai, cái tiêu cực, cái xấu trong xã hội. Người khẳng định: “Viết để nêu những cái hay, cái tốt của dân tộc ta… đồng thời để phê bình nhữg khuyết điểm của chúng ta, của cán bộ, của nhân dân ta, của bộ đội. Không nên chỉ viết cái tốt mà giấu cái xấu. Nhưng phê bình phải đúng đắn. Nêu cái hay,cái tốt thì phải chừng mực, chớ phóng đại”.
Đồng thời với việc khẳng định văn nghệ phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, tham gia cách mạng, Hồ Chí Minh đã nhiều lần nói đến tính đa dạng, phong phú của văn nghệ, coi đó là đặc trưng, là một đòi hỏi nội tại của bản thân văn nghệ và cũng là một đòi hỏi khách quan của công chúng đối với hình thái hoạt động đặc thù này: “… cần làm cho món ăn tinh thần được phong phú, không nên bắt mọi người chỉ được ăn một món thôi. Cũng như vào vườn hoa, cần cho mọi người được thấy nhiều loại hoa đẹp”(2).
4. Một luận điểm cơ bản và rất quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa là: xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Toàn dân tham gia sáng tạo văn hóa, toàn dân làm nghĩa vụ và đóng góp cho sự phát triển văn hóa, toàn dân tham gia xây dựng và tự quản đời sống văn hóa của mình và toàn dân được quyền hưởng thụ, tiếp nhận, lưu giữ và truyền bá văn hóa tốt đẹp, lành mạnh.
Theo Hồ Chí Minh, chỉ khi nào được mọi người dân, mọi tầng lớp nhân dân, mọi tổ chức chính trị, xã hội, các đoàn thể, các dân tộc, tôn giáo… tham gia tự nguyện, thường xuyên, chủ động vào công tác văn hóa thì lúc đó, văn hóa mới phát triển bền vững và mạnh mẽ. Đồng thời Người yêu cầu làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống, vào mọi lĩnh vực, mọi quan hệ của con người, lúc đó, văn hóa mới hoàn thành được chức năng, nhiệm vụ của mình, trở thành động lực và sức mạnh nội sinh của sự phát triển kinh tế – xã hội.
Văn hóa Việt Nam là nền văn hóa đa dạng và phong phú của cộng đồng các dân tộc anh em sống trên đất nước ta. Vì vậy, phát triển văn hóa Việt Nam chính là phát triển tính đa dạng, bản sắc dân tộc phong phú, đặc sắc của các dân tộc, đồng thời l;à sự chung sức xây dựng nền văn hóa chung thống nhất trong đa dạng đó. Hồ Chí Minh nhiều lần căn dặn: muốn phát triển văn hóa các dân tộc, phải tẩy trừ những thành kiến, phải thương yêu, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ lẫn nhau như anh em ruột thịt, một nhà.
Văn hóa là sự nghiệp của toàn dân, vì thế, trong suốt cuộc đời, đặc biệt từ ngay sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công cho đến ngày qua đời (tháng 9 – 1969), Hồ Chí Minh thường xuyên cổ vũ một cách kiên trì, đầy sáng tạo cho nhiệm vụ xây dựng “đời sống mới” bao gồm đạo đức mới, nếp sống mới, lối sống mới, thuần phong mỹ tục mới…. Cuộc vận động độc đáo này của Hồ Chí Minh trong suốt gần 60 năm qua, đã tạo nên những chuyển biến to lớn, sâu sắc trong đời sống văn hóa của nhân dân ta.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa đã và đang là những định hướng lớ cho việc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc của chúng ta hiện nay. Đó vừa là những tư tưởng có ý nghĩa chiến lược sâu sắc, vừa có tác dụng chỉ đạo cụ thể trong hoạt động thực tiễn của chúng ta. Hồ Chí Minh là nhà lý luận văn hóa, đồng thời chính Người là danh nhân văn hóa kiệt xuất. Ở Người, nói thống nhất với làm, chính vì vậy, những chỉ bảo của Người có sức thuyết phục cao. Đó cũng chính là niềm tự hào và hạnh phúc đối với sự nghiệp văn hóa cách mạng của đất nước và dân tộc ta.
Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội bao gồm:
Chủ nghĩa xã hội là một chế độ do nhân dân làm chủ, Nhà nước phải phát huy quyền làm chủ của nhân dân để phát huy được tính tích cực và sáng tạo của nhân dân vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu, nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, trước hết là nhân dân lao động.
Chủ nghĩa xã hội là một xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo đức, trong đó người với người là bạn bè, là đồng chí, là anh em; con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, có cuộc sống vật chất và tinh thần phong phú, được tạo điều kiện để phát triển hết mọi khả năng sẵn có của mình.
Chủ nghĩa xã hội là một xã hội công bằng và hợp lý: làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm thì không được hưởng; các dân tộc đều được bình đẳng, miền núi được giúp đỡ để theo kịp miền xuôi.
Chủ nghĩa xã hội là công trình tập thể của nhân dân, do nhân dân xây dựng dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Từ lúc ra đi tìm đường cứu nước để giải phóng đồng bào, Hồ Chí Minh đã nghĩ đến một xã hội mới, một cuộc sống mới ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Muốn có cuộc sống mới đó, trước tiên phải giành lại độc lập cho dân tộc, kế đó phải xây dựng đất nước vững mạnh cả về chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa. Người chỉ rõ: Nước độc lập mà dân không được hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẵng có nghĩa lý gì!
Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dặn lại: “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”(1).
I. Phát triển kinh tế không ngừng nâng cao đời sống vật chất của nhân dân:
Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta, Hồ Chí Minh đã đề ra nhiều luận điểm, tư tưởng chỉ đạo sáng suốt, có tính nguyên tắc. Đó là:
1. Phát triển kinh tế là nhiệm vụ quan trọng nhất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Nước ta là một nước thuộc địa nữa phong kiến. Kinh tế rất lạc hậu và gồm nhiều thành phần phức tạp, sức sản xuất chưa phát triển, đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân thấp kém. Do vậy, Người đã chỉ rõ: “… nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội,… có công nghiệp và nông nghệp hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài”(2).
2. Về cơ cấu kinh tế.
– Phát triển mạnh cả công công nghiệp và nông nghiệp. Người chỉ rõ: Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa có hai chân là công nghiệp và nông nghiệp, hai chân không đều nhau, không thể lớn mạnh được. Người giải thích rất rõ: Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa có hai chân là công nghiệp và nông nghiệp, hai chân không đều nhau, không thể lớn mạnh được. Người giải thích rất rõ:
Nông nghiệp phải phát triển mạnh để cung cấp đủ lương thực cho nhân dân; cung cấp đủ nguyên liệu (như bông, mía, chè…) cho nhà máy, cung cấp đủ nông sản (như lạc, đỗ, đay…) để xuất khẩu đổi lấy máy mới.
Công nghiệp phải phát triển mạnh để cung cấp đủ hàng tiêu dùng cần thiết cho nhân dân, trước hết là cho nông dân; cung cấp máy bơm nước, phân hóa học, thuốc trừ sâu… để đẩy mạnh nông nghiệp; và cung cấp dần máy cày, máy bừa cho các hợp tác xã nông nghiệp. Công nghiệp phát triển thì nông nghiệp mới phát triển. Cho nên công nghiệp và nông nghiệp phải giúp đỡ lẫn nhau và cùng nhau phát triển, như hai chân đi khỏe và đi đều thì tiến bước sẽ nhanh và nhanh chóng đi đến mục đích. Thực hiện liên minh công nông để xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm no sung sướng cho nhân dân.
– Công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là mục tiêu phấn đấu chung, là con đường no ấm thực sự của nhân dân ta.
Trong bài viết Con đường phía trước (ngày 20-01-1960), Người chỉ rõ nước ta vốn là một nước nông nghiệp lạc hậu. Năm 1959, trong sản xuất của miền Bắc, công nghiệp chỉ mới chiếm không đầy hai phần, còn nông nghiệp và thủ công nghiệp chiếm đến tám phần. Người đặt câu hỏi: Như vậy thì làm sao cho đời sống nhân dân thật dồi dào được? Và Người đã trả lời: “Đời sống nhân dân chỉ có thể thật dồi dào, khi chúng ta dùng máy móc để sản xuất một cách hật rộng rãi: dùng máy móc trong công nghiệp và trong nông nghiệp. Máy sẽ chắp thêm tay cho người, làm cho sức người tăng lên gấp trăm, nghìn lần và giúp người làm những việc phi thường.
Muốn có nhiều máy, thì phải mở mang các ngành công nghiệp làm ra máy, ra gang, thép, than, dầu…. Đó là con đường phải đi của chúng ta, con đường công nghiệp hóa nước nhà.
Hiện nay, chúng ta lấy sản xuất nông nghiệp làm chính. Vì muốn mở mang công nghiệp thì phải có đủ lương thực, nguyên liệu. Nhưng công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa vẫn là mục tiêu phấn đấu chung, là con đường no ấm thật sự của nhân dân ta”(1).
3. Về hình thức sở hữu và thành phần kinh tế.
– Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa phải tạo lập trên cơ sở chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất. Tuy nhiên, ở thời kỳ quá độ, nền kinh tế đó còn tồn tại bốn hình thức sở hữu chính: “+Sở hữu nhà nước tức là của toàn dân.
+ Sở hữu hợp tác xã tức là sở hữ tập thể của nhân dân lao động.
+ Sở hữu của người lao động riêng lẽ.
+ Một ít tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của nhà tư bản”(2).
Người chỉ rõ mục đích của chế độ ta là xóa bỏ các hình thức sở hữu không xã hội chủ nghĩa, làm cho nền kinh tế gồm nhiều thành phần phức tạp trở thành một nền kinh tế thuần nhất, dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữ tập thể.
– Về thành phần kinh tế: trong thời kỳ quá độ còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế. Hồ Chí Minh xác định: “2) Trong chế độ dân chủ mới, có năm loại kinh tề khác nhau:
A- Kinh tế quốc doanh (thuộc chủ nghĩa xã hội, vì nó là của chung của nhân dân).
B- Các hợp tác xã (nó là nửa chủ nghĩa xã hội, và sẽ tiến đến chủ nghĩa xã hội).
C- Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ (có thể tiến dần vào hợp tác xã, tức là nửa chủ nghĩa xã hội).
D- Tư bản của tư nhân.
E- Tư bản của Nhà nước (như Nhà nước hùn vốn với tư bản tư nhân để kinh doanh).
Trong năm loại ấy, loại A là kinh tế lãnh đạo và phát triển mau hơn cả. Cho nên kinh tế ta sẽ phát triển theo hướng chủ nghĩa xã hội chứ không theo hướng chủ nghĩa tư bản”(1).
Phải phát triển các thành phần kinh tế, phát triển kinh tế quốc doanh để tạo nền tảng cho kinh tế xã hội chủ nghĩa; khuyến khích kinh tế hợp tác xã với các hình thức đa dạng, nhấn mạnh các nguyên tắc tự nguyện, cùng có lợi và quản lý dân chủ, Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất cho họ, hướng dẫn và giúp đỡ họ cải tiến cách làm ăn. Đối với các nhà công thương, họ đã tham gia ủng hộ cách mạng dân tộc dân chủ thì sẵn sàng cải tạo, hướng họ hợp doanh với Nhà nước để góp phần xây dựng đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội, không xóa bỏ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và của cải khác của họ, hướng dẫn họ phục vụ cho quốc kế dân sinh phù hợp với kế hoạch Nhà nước.
4. Tăng gia sản xuất phải đi đôi với thực hành tiết kiệm trong sản xuất, trong tiêu dùng, tiết kiệm vật tư, thời gian, sức lao động. Đồng thời, phải chống tham ô, lãng phí, quang liêu là những “giặc nội xâm”, đồng minh với giặc ngoại xâm.
Người chỉ rõ: “Tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm là con đường đi đến xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội, xây dựng hạnh phúc cho nhân dân. Tăng gia là tay phải của hạnh phúc, tiết kiệm là tay trái của hạnh phúc”(2).
II. Không ngừng nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân.
1. Thấu hiểu sâu sắc chủ nghĩa Mác – Lênin, tinh hoa văn hóa thế giới và các giá trị văn hóa dân tộc, Hồ Chí Minh đã nhận rõ vị trí đặc biệt quan trọng và ý nghĩa lớn lao của văn hóa.
Từ năm 1943, Hồ Chí Minh đã nêu ra định nghĩa về văn hóa: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”(1).
Cùng với việc chỉ rõ nội hàm của văn hóa, Người phân tích và luôn nhấn mạnh mối quan hệ biện chứng giữa văn hóa và cơ sở hạ tầng, văn hóa với kinh tế, chính trị, xã hội: “Văn hóa là một kiến trúc thượng tầng; những cơ sở hạ tầng của xã hội có kiến thiết rồi, văn hóa mới đủ điều kiện phát triển được”. Mặt khác, Người lại khẳng định nhiều lần ý nghĩa, vai trò của văn hóa là động lực của sự phát triển kinh tế, phát triển xã hội, “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”.
Từ cách nhìn nhận rất biện chứng rên, Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, trong công cuộc kiến thiết nước nhà, có bốn vấn đề cùng phải chú ý đến, cùng phải coi trọng ngang nhau là chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội. Đồng thời, trong quan hệ của bốn thành tố trên, Hồ Chí Minh chỉ rõ vai trò quyết định của chính trị và kinh tế đối với sự phát triển của văn hóa.
Khi dân tộc và đất nước còn bị nô lệ thì văn hóa cùng chung số phận nô lệ đó, vì vậy, theo Hồ Chí Minh, phải tiến hành cách mạng chính tị trước để giải phóng chính trị, giải phóng xã hội, từ đó, giải phóng văn hóa, mở đường cho văn hóa phát triển. “Xưa kia chính trị bị áp bức, nền văn hóa của ta vì thế không nảy sinh được”.
Khi đất nước đã được giải phóng, bước vào thời kỳ xây dựng, Hồ Chí Minh chỉ rõ kinh tế là nền tảng của việc xây dựng văn hóa, vì vậy phải xây dựng kinh tế làm cơ sở hạ tầng cho sự phát triển văn hóa “Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế và văn hóa. Vì sao không nói phát triển văn hóa và kinh tế? Tục ngữ ta có câu: Có thực mới vực được đạo; vì thế kinh tế phải đi trước. Phát triển kinh tế và văn hóa để nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân ta”(2).
Văn hóa thuộc kiến trúc thượng tầng, gắn bó hữu cơ với cơ sở hạ tầng, vì thế, từ trong bản chất và tuân thủ quy luật chung, văn hóa ở trong kinh tế và chính trị, văn hóa không thể đứng ngoài, mà có nhiệm vụ góp phần thúc đẩy xây dựng và phát triển kinh tế, phục vụ sự nghiệp cách mạng của nhân dân, trở thành một động lực to lớn, chủ động tác động tích cực trở lại đối với kinh tế và chính trị. “Văn hóa, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị”(3). nguyên lý này hoàn toàn khôg phải là sự áp đặt đối với văn hóa – văn nghệ, mà chính là bản chất xã hội của văn hóa, là một quy luật khách quan của mối quan hệ biện chứng trên.
Từ luận điểm cơ bản trên, ngay trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Hồ Chí Minh đã rút ra một kết luận có ý nghĩa cực kỳ quan trọng nhằm định hướng cho toàn bộ sự phát triển của văn hóa nước ta: Tham gia cách mạng là con đường duy nhất, là nhu cầu tất yếu của văn hóa – văn nghệ và những người hoạt động, sáng tạo trên lĩnh vực này. Rõ ràng là dân tộc bị áp bức thì văn nghệ cũng mất tự do. Văn nghệ muốn được tự do thì phải tham gia cách mạng. Tham gia cách mạng không chỉ để đóng góp tích cực vào tiến trình và thắng lợi của cuộc đấu tranh giải phóng, bảo vệ và xây dựng Tổ quốc, mà còn vì nhu cầu tồn tại và phát triển của bản thân văn nghệ, vì sự tự do chân chính của văn nghệ. Kết luận hiển nhiên, giản dị đó của Hồ Chí Minh thực sự có ý nghĩa lớn lao đối với văn hóa, văn nghệ nước ta gần 60 năm qua.
2. Tính chất, đặc trưng, chức năng của nền văn hóa mới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định nhiệm vụ xây dựng “một nền văn hóa mới” và chỉ rõ tính chắt, đặc trưng và chức năng chủ yếu của nền văn hóa đó.
a. Ngay sau ngày Quốc khánh 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho thành lập Ủy ban văn hóa lâm thời Bắc bộ. Tại buổi tiếp đại biểu của Ủy ban này ngày 7-9-1945, Hồ Chí Minh chỉ rõ: Bổn phận của các ngài là lãnh đạo tư tưởng quốc dân, đấu tranh cho độc lập và kiến thiết một nền văn hóa mới. Từ đó, tùy theo nhiệm vụ của từng giai đoạn cách mạng, Hồ Chí Minh và Đảng ta nhấn mạnh các tính chất, đặc trưng của nền văn hóa đó, và để phù hợp với tiến trình cách mạng, với kết quả tổng kết thực tiễn, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã từng bước điều chỉnh, bổ sung, hoàn chỉnh các quan điểm cơ bản của mình. Song, tựu trung, đó là nền văn hóa bao hàm các tính chất dân tộc, hiện đại và nhân văn để tạo nên một nền văn hóa mới đa dạng và thống nhất – nền văn hóa Việt Nanm tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (năm 1991) của Đảng đúc kết và khẳng định.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, yêu nước là nấc thang giá trị cao nhất của dân tộc Việt Nam và của nền văn hóa Việt Nam. Kế tục phẩm chất bền vững đó của văn hóa dân tộc trong quá khứ, nền văn hóa mới phải tiếp tục phát triển với những đặc trưng mới. Theo Hồ Chí Minh, đó chính là sự gắn bó mật thiết và trở thành một bộ phận của sự nghiệp cách mạng, là sự hài hòa giữa lý tưởng độc lập dân tộc với lý tưởng xã hội chủ nghĩa trong nền văn hóa đó, trở thành nội dung cốt lõi của nó trong thời kỳ mới. Như vậy, chứa đựng trong nền văn hóa mới của chúng ta, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, là những giá trị bền vững, cao quý và những tinh hoa của văn hóa và truyền thống dân tộc cùng với những giá trị mới được xây đắp và phát triển trong thời kỳ hiện đại của dân tộc ta. Có nghĩa là, tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là nhân tố và phẩm chất hòa quyện hữu cơ trong nền văn hóa, tạo nên tổng thể giá trị của nền văn hóa mới.
Về phẩm chất dân tộc, đậm đà bản sắc dân tộc của nền văn hóa mới, trước hết là nền văn hóa đó gốc rễ từ dân tộc, mang tâm hồn, diện mạo, đặc tính và cốt cách dân tộc. Đó là những giá trị bền vững và những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự lực tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân, gia đình, làng xã, Tổ quốc, lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý; đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; dũg cảm, thông minh trong chiến đấu, sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống; tình nghĩa thủy chung với người thân, bạn bè.
Trong rất nhiều bài nói, bài viết của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh ân cần nhắc nhở chúng ta phải giữ gìn và phát huy những truyền thống và bản sắc tốt đẹp ấy của dân tộc. Người khẳng định, văn hóa phải “lột cho hết tinh thần dân tộc”, “phát huy cốt cách dân tộc”… không chỉ ở chiều sâu của nội dung văn hóa mà còn thể hiện đậm đà trong các hình thức, phương thức biểu hiện nội dung đó.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, nói giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc không đồng nghĩa với dân tộc hẹp hòi, đóng cửa, khép kín và cũng hoàn toàn xa lạ với kiểu bắt chước, học đòi, lai căng để đánh mất đi cái độc đáo, cái đặc trưng của dân tộc mình. Phải biết kế thừa, phát huy có chọn lọc những truyền thống văn hóa tốt đẹp phù hợp với những điều kiện lịch sử mới, kiên quyết phê phán và loại bỏ những tập tục lạc hậu, cổ hủ, đủ bản lĩnh để mở rộng giao lưu với thế giới, tiếp thu có chọn lọc những cái hay, cái tốt đẹp, tiến bộ của văn hóa nhân loại, tỉnh táo chống lại sự xâm nhập của mọi thứ văn hóa độc hại… “Tây phương hay Đông phương có cái gì tốt, ta học lấy để tạo ra một nền văn hóa Việt Nam. Nghĩa là lấy kinh nghiệm tốt của văn hóa xưa và văn hóa nay, trau dồi cho văn hóa Việt Nam thật có tinh thần thuần túy Việt Nam”.
b. Nền văn hóa mới, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, phải là một nền văn hóa thấm sâu phẩm chất nhân văn và dân chủ, “hợp với tinh thần dân chủ”, mà trước hết là sự tôn trọng và yêu thương con người, góp phần cho sự phát triển toàn diện của con người, đặc biệt là bồi dưỡng nâng cao đời sống tinh thần, tư tưởng, tình cảm phong phú, cao đẹp của con người. Đây chính là sứ mệnh, là chức năng chủ yếu của văn hóa. Trong quan niệm của mình về văn hóa, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên nhấn mạnh một chức năng có vị trí đặc biệt của văn hóa là bám sát và thấu hiểu cuộc sống, miêu tả và khám phá con người, bảo vệ và khẳng định, góp phần trực tiếp xây dựng con người mới đang hình thành trong cuộc chiến đấu đầy hy sinh, gian khổ và vĩ đại vì sự ra đời và chiến thắng của xã hội mới. Thấu hiểu đặc trưng và sức mạnh riêng của văn hóa, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn có niềm tin sâu sắc về khả năng của văn hóa có thể và cần phải nuôi dưỡng, xây đắp cho con người nhữg lý tưởng cao quý, những tư tưởng và tình cảm lớn, những phẩm chất tốt đẹp cho con người để giúp con người vươn tới cái chân, cái thiện, cái mỹ và từ đó con người có năng lực và khát vọng không ngừng hoàn thiện bản thân. Quá trình tự hoàn thiện ấy chính là quá trình con người vươn lên cái tốt đẹp, cái tiến bộ và đấu tranh với cái xấu xa, đen tối, lạc hậu. Vai trò cao quý của văn hóa, với tư cách là động lực của sự phát triển, trước hết là thông qua chức năng chủ yếu và đặc trưng này của văn hóa. Hồ Chí Minh nhiều lần nhấn mạnh: Phải làm thế nào cho văn hóa vào sâu trong tâm lý của quốc dân, nghĩa là văn hóa phải sửa đổi được tham nhũng, được lười biếng, phù hoa, xa xỉ… văn hóa phải làm thế nào cho ai cũng có lý tưởng tự chủ, độc lập, tự do… làm thề nào cho mỗi người dân Việt Nam từ trẻ đến già, cả đàn ông và đàn bà ai cũng hiểu nhiệm vụ của mình và biết hưởng hạnh phúc của mình đáng được hưởng.
Nói đến văn hóa là nói đến phẩm chất, đến giá trị, đồng thời cũng là nói đến trình độ của con người. Nuôi dưỡng các phẩm chất, xây đắp các giá trị tinh thần, tư tưởng, tình cảm và nâng cao trình độ dân trí là những chức năng không thể tách rời của văn hóa. Theo yêu cầu của từng thời kỳ của cuộc đấu tranh cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên nhấn mạnh các nhiệm vụ lớn lao trên của văn hóa. “Chúng ta phải biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn hóa cao và đời sống tươi vui hạnh phúc”(1). Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định như vậy ngay khi đất nước ta kết thúc cuộc chếin tranh chống thực dân Pháp và miền Bắc bắt đầu bước vào thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chính từ quan điểm đó mà Người luôn đòi hỏi rất cao đối với chất lượng của hoạt động văn hóa, đáp ứng các nhu cầu đa dạng của con người – nhận thức, tiếp nhận, hưởng thụ văn hóa và nâng cao trình độ hiểu biết toàn diện của mình thông qua văn hóa, bằng văn hóa. Người nhắc nhở: Phong trào văn hóa có bề rộng, chưa có bề sâu, nặng về mặt giải trí mà còn nhẹ về mặt nâng cao tri thức của quần chúng. Sự nhắc nhở đó cách đây đã gần 40 năm, nhưng chúng ta thấy đó như là sự phê bình trực tiếp những thiếu sót, khuyết điểm của công tác văn hóa nước ta trong những tháng ngày gần đây nhất.
Chính do tính chất, đặc trưng và chức năng đặc biệt trên của văn hóa, theo lời dạy và chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cần phải làm mọi cách để phát huy tối đa sức mạnh của văn hóa làm cho các nhân tố văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực, trong mọi phương diện chính rị, kinh tế, xã hội, pháp luật, kỷ cương… và mọi quan hệ của con người với tự nhiên, xã hội và với chính mình…, biến văn hóa thành một nguồn lực nội sinh quan trọng của phát triển.
3. Văn hóa bao gồm nhiều lĩnh vực rộng lớn và phong phú.
Xét về đặc trưng của lĩnh vực hoạt động tinh thần, văn hóa gồm có văn hóa chính trị, văn hóa đạo đức, văn hóa gíao dục, văn hóa nghệ thuật, văn hóa pháp luật, văn hóa lao động, đời sống văn hóa cụ thể, văn hóa lối sống… Hồ Chí Minh đã quan tâm và có nhiều ý kiến sâu sắc về hầu hết các lĩnh vực đó của văn hóa. Xét về loại hình hoạt động cụ thể, chúng ta còn thấy Người đã đề cập và cho ý kiến chỉ đạo cụ thể từng loại hình, từ báo chí đến văn hóa nghệ thuật, từ khoa học đến giáo dục, từ đạo đức đến lối sống nếp sống, xây dựng đời sống mới, từ các hoạt động văn hóa quần chúng đến lĩnh vực sáng tạo nghệ thuật chuyên nghiệp, từ truyền thống văn hóa quá khứ đến văn hóa, nghệ thuật hiện đại, đương đại, từ cách nói, cách viết đến ngôn ngữ và chữ viết…
Điều đặc biệt quan trọng là, xuất phát từ sự am hiểu sâu sắc, toàn diện bản chất xã hội và đặc trưng của văn hóa nói chung, Hồ Chí Minh đã chỉ ra rất rõ ràng, sinh động, đầy sức thuyết phục các đặc thù và sức mạnh riêng của mỗi lĩnh vực, mỗi loại hình hoạt động văn hóa cụ thể, từ đó chỉ đạo chính xác, khoa học các quan điểm cơ bản nđối với từg lĩnh vực và hoạt động đó.
Ở đây chỉ xin nêu vắn tắt một vài dẫn chứng về lĩnh vực văn nghệ (được hiểu là văn học và các loại hình nghệ thuật).
Văn nghệ là biểu hiện tập trung nhất của văn hóa, là đỉnh cao của đời sống tinh thần, là hình ảnh của cốt cách, tâm hồn, đặc tính dân tộc. Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng văn nghệ Người đã khai sinh ra nền văn nghệ cách mạng và chính Người là ngọn cờ đầu, là người thầy, người chiến sĩ mở đường, tiên phong trong sáng tạo văn nghệ, cả thơ ca, truyện ký, kịch chính luận và lý luận văn nghệ.
Bằng cả cuộc đời mình Hồ Chí Minh đã đúc kết và khẳng định một chân lý, một quan điểm sâu sắc: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”, tác phẩm văn nghệ là vũ khí sắc bén trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng, xây dựng con người mới và xã hội mới.
Quan điểm trên đây của Hồ Chí Minh đã có một ý nghĩa đặc biệt to lớn và sâu sắc trong việc tập hợp, rèn luyện, xây dựng và phát triển một đội ngũ văn nghệ sĩ kiểu mới, làm cho họ trở thành những nghệ sĩ, chiến sĩ, chiến sĩ, nghệ sĩ, tự nguyện tham gia vào sự nghiệp cách mạng bằng tài năng và sự sáng tạo của mình. Để hoàn thành xuất sắc sứ mệnh của mình chiến sĩ, nghệ sĩ – Hồ Chí Minh thường xuyên căn dặn văn nghệ sĩ phải bồi dưỡng đồng thời cả phẩm chất và tài năng, hai nhân tố quyết định cho thành công trong hoạt động sáng tạo của mình “Phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, trước hết là công, nông, binh”.
Văn nghệ “cần hiểu thấu liên hệ và đi sâu vào đời sống của nhân dân”, gắn bó và am hiểu sâu thực tiễn đời sống lao động, sản xuất, chiến đấu, sinh hoạt, học tập và xây dựng cuộc sống mới để có thể phản ánh chân thật, sinh động thực tiễn ấy, “bày tỏ được tinh thần anh dũng và kiên quyết của quân và dân ta, đồng thời để giúp phát triển và nâng cao cho tinh thần ấy”.
Thực tiễn phong phú trong lao động và đấu tranh của nhân dân luôn luôn là nguồn sinh khí, nguồn nhựa sống vô tận cho sáng tạo văn học và nghệ thuật, chính vì thế, Hồ Chí Minh nêu lên yêu cầu văn nghệ sĩ phải “thật hòa mình với quần chúng”, gắn bó máu thịt với quà chúng, vì “chỉ có nhân dân mới nuôi dưỡng cho sáng tác của nhà văn bằng những nguồn nhựa sống. Còn nếu nhà văn quên điều đó – nhân dân cũng sẽ quên anh ta”(1).
Phải có những tác phẩm văn nghệ xứng đáng với thời đại mới của dân tộc, của đất nước, và các tác phẩm đó phải phản ánh cho hay, cho chân thật, cho hùng hồn sự nghiệp cách mạng của nhân dân, đó là một đòi hỏi, đồng thời là một nguyện vọng, mong chờ sâu xa của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp văn nghệ và đối với đội ngũ văn nghệ sĩ cách mạng của chúng ta. Sáng tác cho hay, cho chân thật là những yêu cầu tạo ra những giá trị về tư tưởng và nghệ thuật đối với tác phẩm văn nghệ. Theo Hồ Chí Minh, “ca tụng chân thật những người mới, việc mới” không đồng nghĩa với việc tô hồng hiện thực, tạo ra những hình ảnh xa rời đời sống hoặc lẩn tránh việc phê phán cái sai, cái tiêu cực, cái xấu trong xã hội. Người khẳng định: “Viết để nêu những cái hay, cái tốt của dân tộc ta… đồng thời để phê bình nhữg khuyết điểm của chúng ta, của cán bộ, của nhân dân ta, của bộ đội. Không nên chỉ viết cái tốt mà giấu cái xấu. Nhưng phê bình phải đúng đắn. Nêu cái hay,cái tốt thì phải chừng mực, chớ phóng đại”.
Đồng thời với việc khẳng định văn nghệ phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, tham gia cách mạng, Hồ Chí Minh đã nhiều lần nói đến tính đa dạng, phong phú của văn nghệ, coi đó là đặc trưng, là một đòi hỏi nội tại của bản thân văn nghệ và cũng là một đòi hỏi khách quan của công chúng đối với hình thái hoạt động đặc thù này: “… cần làm cho món ăn tinh thần được phong phú, không nên bắt mọi người chỉ được ăn một món thôi. Cũng như vào vườn hoa, cần cho mọi người được thấy nhiều loại hoa đẹp”(2).
4. Một luận điểm cơ bản và rất quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa là: xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Toàn dân tham gia sáng tạo văn hóa, toàn dân làm nghĩa vụ và đóng góp cho sự phát triển văn hóa, toàn dân tham gia xây dựng và tự quản đời sống văn hóa của mình và toàn dân được quyền hưởng thụ, tiếp nhận, lưu giữ và truyền bá văn hóa tốt đẹp, lành mạnh.
Theo Hồ Chí Minh, chỉ khi nào được mọi người dân, mọi tầng lớp nhân dân, mọi tổ chức chính trị, xã hội, các đoàn thể, các dân tộc, tôn giáo… tham gia tự nguyện, thường xuyên, chủ động vào công tác văn hóa thì lúc đó, văn hóa mới phát triển bền vững và mạnh mẽ. Đồng thời Người yêu cầu làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống, vào mọi lĩnh vực, mọi quan hệ của con người, lúc đó, văn hóa mới hoàn thành được chức năng, nhiệm vụ của mình, trở thành động lực và sức mạnh nội sinh của sự phát triển kinh tế – xã hội.
Văn hóa Việt Nam là nền văn hóa đa dạng và phong phú của cộng đồng các dân tộc anh em sống trên đất nước ta. Vì vậy, phát triển văn hóa Việt Nam chính là phát triển tính đa dạng, bản sắc dân tộc phong phú, đặc sắc của các dân tộc, đồng thời l;à sự chung sức xây dựng nền văn hóa chung thống nhất trong đa dạng đó. Hồ Chí Minh nhiều lần căn dặn: muốn phát triển văn hóa các dân tộc, phải tẩy trừ những thành kiến, phải thương yêu, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ lẫn nhau như anh em ruột thịt, một nhà.
Văn hóa là sự nghiệp của toàn dân, vì thế, trong suốt cuộc đời, đặc biệt từ ngay sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công cho đến ngày qua đời (tháng 9 – 1969), Hồ Chí Minh thường xuyên cổ vũ một cách kiên trì, đầy sáng tạo cho nhiệm vụ xây dựng “đời sống mới” bao gồm đạo đức mới, nếp sống mới, lối sống mới, thuần phong mỹ tục mới…. Cuộc vận động độc đáo này của Hồ Chí Minh trong suốt gần 60 năm qua, đã tạo nên những chuyển biến to lớn, sâu sắc trong đời sống văn hóa của nhân dân ta.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa đã và đang là những định hướng lớ cho việc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc của chúng ta hiện nay. Đó vừa là những tư tưởng có ý nghĩa chiến lược sâu sắc, vừa có tác dụng chỉ đạo cụ thể trong hoạt động thực tiễn của chúng ta. Hồ Chí Minh là nhà lý luận văn hóa, đồng thời chính Người là danh nhân văn hóa kiệt xuất. Ở Người, nói thống nhất với làm, chính vì vậy, những chỉ bảo của Người có sức thuyết phục cao. Đó cũng chính là niềm tự hào và hạnh phúc đối với sự nghiệp văn hóa cách mạng của đất nước và dân tộc ta.
Bài làm:
Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội bao gồm: