Hãy làm rõ pháp luật của phương Đông thời trung đại là sự kết hợp của đức trị và pháp trị.
0 bình luận về “Hãy làm rõ pháp luật của phương Đông thời trung đại là sự kết hợp của đức trị và pháp trị.”
PGS.TS Nguyễn Xuân Trung
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
Hơn 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, Đảng ta luôn quan tâm, chú trọng đến vấn đề xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Đại hội XII của Đảng khẳng định: “Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị”. Từ đây, tư duy lý luận của Đảng về Nhà nước pháp quyền đã được hoàn thiện thêm một bước. Những định hướng sâu sắc và toàn diện cùng những yêu cầu then chốt về vấn đề xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tạo cơ sở cho toàn bộ quá trình xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu phát triển trong thời kỳ mới. Bởi vậy, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta cần nhận thức và quán triệt một cách đầy đủ, sâu sắc tư tưởng nhân văn và cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền, nhất là trong việc phát huy mối quan hệ biện chứng, thống nhất giữa “Đức trị” và “Pháp trị” Hồ Chí Minh, nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền – tư tưởng nhân văn, ưu việt và tiến bộ
Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền được gắn liền với tư tưởng phát triển dân chủ đã hình thành từ thời cổ đại với những đại diện tiêu biểu là Xôcrat, Arixtốt, Xixêrôn và được các nhà tư tưởng chính trị và pháp lý tư bản như Giôn Lốccơ, Môngtexkiơ, I.Kant hay Hêghen tiếp tục hoàn thiện và phát triển. Đến nay, các học giả, các nhà nghiên cứu đều có chung một nhận định: Nhà nước pháp quyền không phải một kiểu nhà nước, mà là một cách thức tổ chức nền dân chủ, cách thức tổ chức nhà nước và xã hội trên nền tảng dân chủ. Đó là nhà nước mà phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy nhà nước do pháp luật quy định và thừa nhận tính tối cao của pháp luật; bao hàm việc xác định rõ quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, với hệ thống pháp luật đầy đủ, rõ ràng, minh bạch, thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân để điều chỉnh những quan hệ pháp luật phát sinh trong xã hội, nhất là việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, của con người.
Bằng thực tiễn nghiên cứu, trải nghiệm các phong trào cách mạng và quá trình hình thành, phát triển của nhiều nhà nước trên thế giới, trên nền tảng văn hóa truyền thống cùng lịch sử hàng nghìn năm dựng nước, giữ nước của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại một di sản to lớn về vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Đó là sự vận dụng sáng tạo học thuyết về nhà nước của các nhà kinh điển Mác -Lênin; là tư tưởng về Nhà nước pháp quyền mang đậm dấu ấn cá nhân với tính chất nhân văn, ưu việt và tiến bộ hơn hẳn so với các nhà lý luận đi trước.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền có thể gói gọn trong 4 nội dung chủ yếu là:
Thứ nhất, Nhà nước pháp quyền phải là nhà nước dân chủ, của dân, do dân và vì dân. Theo Hồ Chí Minh, vấn đề cơ bản của nhà nước là quyền lực thuộc về ai và phục vụ quyền lợi của ai. Vì thế, Người khẳng định trong Nhà nước pháp quyền, nhân dân là chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực nhà nước. Người cho rằng: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân… Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra”, “tất cả quyền lực trong nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đều thuộc về nhân dân”[1]. Quan điểm này được hình thành trên nền tảng lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin về bản chất dân chủ trong nhà nước và chủ thể quyền lực nhà nước phải thuộc về đa số; chỉ có nhà nước mà quyền lực thuộc về nhân dân thì nhà nước mới có thể quản lý được xã hội phù hợp với quy luật, phục vụ lợi ích nhân dân. Người căn dặn: “Chúng ta hiểu rằng, các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật. Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”[2]. Đó là một quan điểm thấm đẫm tinh thần nhân văn, nhân đạo của Hồ Chí Minh.
Thứ hai, Nhà nước pháp quyền phải là một nhà nước tôn trọng pháp luật, được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Thực tế, Hồ Chí Minh không dùng khái niệm “Nhà nước pháp quyền” mà gọi đó là “nhà nước kiểu mới” với nhận thức rất đầy đủ và nghiêm túc vai trò quan trọng của pháp luật trong quản lý, điều hành xã hội. Đó là một xã hội mà người dân được hưởng mọi quyền dân chủ, có quyền làm bất cứ việc gì mà pháp luật không cấm, đồng thời có nghĩa vụ tuân theo pháp luật. Đây là quan niệm tiến bộ, rất phù hợp với xu thế phát triển đi lên của nhân loại và thời đại.
Thứ ba, Nhà nước pháp quyền kiểu mới phải là nhà nước trong sạch, vững mạnh, hiệu quả; phải khắc phục được những căn bệnh cố hữu của các nhà nước kiểu cũ. Hồ Chí Minh quan niệm một nhà nước vững mạnh, có hiệu lực phải là một Nhà nước pháp quyền “mạnh mẽ và sáng suốt”. Người chỉ rõ: Nhà nước đó phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân, phải làm cho mọi người dân sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Để đạt được mục tiêu đó, bên cạnh việc xây dựng một thiết chế của nhà nước dân chủ, một trong những mối quan tâm của Người là đào tạo và bồi dưỡng được một đội ngũ cán bộ chính quyền đúng với bản chất của Nhà nước, với những tiêu chuẩn chặt chẽ, thấm nhuần tinh thần “nhân dân là người chủ, mà Chính phủ là người đày tớ trung thành của nhân dân”[3]. Quan điểm này được kế thừa trên nền tảng tư tưởng Mác – Lênin về xây dựng bộ máy nhà nước chất lượng kiểu mẫu thật sự, song tỏ ra ưu việt hơn ở chỗ nó được cải biến phù hợp với con người, với phẩm chất và truyền thống của dân tộc Việt Nam.
Bốn là, Nhà nước pháp quyền Việt Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo, có sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân và tính dân tộc rộng rãi. Hồ Chí Minh khẳng định bản chất giai cấp công nhân và nhấn mạnh tính dân tộc, tính nhân dân sâu sắc của Nhà nước kiểu mới là nền tảng để thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Nhà nước ta phát huy dân chủ đến cao độ, đó là do tính chất Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân. Có phát huy dân chủ đến cao độ thì mới động viên được tất cả lực lượng của nhân dân đưa cách mạng tiến lên. Đồng thời phải tập trung đến cao độ để thống nhất lãnh đạo nhân dân xây dựng chủ nghĩa xã hội”[4]. Đây là sự kế thừa có phát triển nguyên tắc xây dựng nhà nước của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin, nhà nước phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo, mọi hoạt động của nhà nước đều nhằm phục vụ lợi ích tối cao của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Vì vậy, Hồ Chí Minh cho rằng, Nhà nước phải phát huy dân chủ, phải làm cho việc thực hành dân chủ là công việc thường xuyên, tự giác trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội vì “thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn”[5].
Những quan điểm về Nhà nước pháp quyền, nhà nước kiểu mới của Hồ Chí Minh đến nay về cơ bản còn nguyên giá trị và là phương pháp luận quan trọng mà chúng ta cần nghiêm túc quán triệt để vận dụng sáng tạo, phù hợp vào điều kiện cụ thể của đất nước nhằm xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
2. “Đức trị” trong tư tưởng Hồ Chí Minh là gốc rễ của quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền
Xét về nguồn gốc, Đức trị là học thuyết chính trị do Khổng Tử (551- 479 tr.CN) khởi xướng, có nghĩa “Chính trị là đạo đức”. Các nhà Đức trị cho rằng: chính trị là sự tiếp tục của đạo đức và chủ trương đưa đạo đức trở thành đường lối chính trị. Đức trị là học thuyết của người quân tử, hàm ý người quân tử phải hội đủ Đức và Đạo, trong đó, Đạo là tu thân – tề gia – trị quốc – bình thiên hạ; Đức là nhân – lễ – nghĩa – trí – tín.
Sinh ra trong một gia đình nhà Nho yêu nước, thấm nhuần tư tưởng Nho giáo lấy “dân vi bang bản” (tức coi dân là gốc nước), “dân vi quí, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” (tức dân là quý nhất, thứ nhì là xã tắc, cuối cùng mới đến vua), Hồ Chí Minh đã tìm thấy trong học thuyết “Đức trị” những yếu tố tích cực và tiếp nhận với tinh thần rộng mở, không định kiến, không cố chấp. Đồng thời, Người vận dụng sáng tạo học thuyết Mác – Lênin để mở rộng và nâng tầm ý nghĩa của quan điểm “Đức trị” cho phù hợp với những yêu cầu của thực tiễn cách mạng Việt Nam.
“Đức trị” trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền là một nhà nước: do Đảng chân chính và cách mạng lãnh đạo, một đảng là đạo đức, là văn minh, “Ngoài lợi ích của nhân dân và của giai cấp công nhân, Đảng ta không có lợi ích nào khác”[6]. Đồng thời, là nhà nước có những con người thấm nhuần đạo đức xã hội chủ nghĩa, hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân. “Đức trị” trong tư tưởng Hồ Chí Minh còn mang hàm ý “việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”; đồng thời ra sức nêu gương, tăng cường giáo dục, rèn luyện đạo đức mới cho cán bộ, đảng viên, cho nhân dân, để hình thành con người mới, phù hợp với xã hội mới.
Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, bộ máy nhà nước được thiết lập theo nguyên tắc “mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân”, đưa nhân dân lao động trở thành người chủ của xã hội. Ngay khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”[7] nên “Các công việc của Chính phủ làm phải nhằm vào một mục đích duy nhất là mưu tự do hạnh phúc cho mọi người. Cho nên Chính phủ nhân dân bao giờ cũng phải đặt quyền lợi dân lên trên hết thảy. Việc gì có lợi cho dân thì làm. Việc gì có hại cho dân thì phải tránh”[8]. Đây là tư tưởng nhất quán, xuyên suốt quá trình lãnh đạo và chỉ đạo cách mạng Việt Nam của Hồ Chủ tịch.
Thực tiễn cho thấy, nền chính trị mà Hồ Chí Minh xây dựng là một nền chính trị đạo đức. Đạo đức cao nhất mà Người đưa ra là “đạo đức cách mạng”. Mục tiêu mà suốt đời Người đeo đuổi, phấn đấu là: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”[9]. Người cho rằng đạo đức là để phục vụ cho xã hội, cho nhân dân, cho sự nghiệp giải phóng loài người. Như vậy, tư tưởng đạo đức và tư tưởng về chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh không tách rời nhau mà thống nhất với nhau. Các phạm trù của học thuyết “Đức trị” đã được Hồ Chí Minh tiếp thu và phát triển, thấm đượm bản chất giai cấp, tính nhân dân và tính chiến đấu để trở thành những phạm trù “Đạo đức cách mạng”. Nội dung của “Đạo đức cách mạng” Hồ Chí Minh có sự khác biệt về chất so với đạo đức phong kiến. Người khẳng định: “…Đạo đức đó không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người. Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”[10].
Người nêu rõ: “Đạo đức cách mạng là tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân”[11]. Trong bài nói chuyện với Lớp bổ túc cán bộ quân sự Trung ương tổ chức tháng 10/1947, Người căn dặn: “Muốn có đạo đức cách mạng phải có 5 điều sau đây: Trí – Tín – Nhân – Dũng – Liêm”[12]. “Ngày xưa, dưới chế độ phong kiến, những người làm quan không đục khoét dân, thì gọi là LIÊM, chữ liêm ấy chỉ có nghĩa hẹp. Cũng như ngày xưa trung là trung với vua. Hiếu là hiếu với cha mẹ mình thôi. Ngày nay, nước ta là Dân chủ Cộng hoà, chữ LIÊM có nghĩa rộng hơn; là mọi người đều phải LIÊM. Cũng như trung là trung với Tổ quốc, hiếu là hiếu với Nhân dân”[13]. Người nhiều lần đề cập tới yêu cầu của người cán bộ, đảng viên là: “Người cán bộ cách mạng phải có đạo đức cách mạng. Phải giữ vững đạo đức cách mạng mới là người cán bộ cách mạng chân chính. Đạo đức cách mạng có thể nói tóm tắt là: Nhận rõ phải, trái. Giữ vững lập trường. Tận trung với nước. Tận hiếu với dân. Mọi việc thành hay là bại, chủ chốt là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng, hay là không”[14].
Như vậy, các tiêu chuẩn đạo đức cách mạng của Hồ Chí Minh có nguồn gốc từ “Đức trị”, song đã được Người vận dụng, sáng tạo, bổ sung phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tiễn của đất nước và con người Việt Nam. So với lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, quan điểm của Hồ Chí Minh về “đạo đức cách mạng”, về “Đức trị” thể hiện tư duy độc lập, sáng tạo, có sự kế thừa và phát triển trên tinh thần khoa học nhưng thấm đẫm tinh thần nhân văn, dân tộc.
Trong suốt cuộc đời của mình, Hồ Chí Minh luôn kiên trì với hai nguyên tắc: Nói đi đôi với làm và gương mẫu nêu gương. Cùng với việc từng bước xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hoàn thiện về cả ba mặt lập pháp, hành pháp và tư pháp, Người suốt đời phục vụ cho sự nghiệp cách mạng, phấn đấu tu dưỡng, rèn luyện đạo đức và kiên trì giáo dục cán bộ, đảng viên, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo, quản lý trong tổ chức bộ máy nhà nước. Người căn dặn: “Trong giáo dục không những phải có tri thức phổ thông mà phải có đạo đức cách mạng. Có tài phải có đức. Có tài không có đức, tham ô hủ hoá có hại cho nước. Có đức không có tài như ông bụt ngồi trong chùa, không giúp ích gì được ai”[15]. Nhờ có đạo đức cách mạng làm nền tảng mà người cán bộ của Đảng mới hoàn thành được sứ mệnh vẻ vang, làm tròn bổn phận với Tổ quốc, với nhân dân: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”[16].
Bản thân Hồ Chí Minh chính là tấm gương điển hình mẫu mực của nền chính trị đạo đức. Chính bởi tầm vóc, tư tưởng và trí tuệ Hồ Chí Minh đã thuyết phục được các sĩ phu yêu nước cũ điển hình như cụ Huỳnh Thúc Kháng, Phan Kế Toại và đông đảo trí thức tân học tin tưởng và đi theo sự lãnh đạo của Đảng. Nếu như “đạo đức cách mạng” là yêu cầu cơ bản, là cái gốc của người cán bộ thì “Đức trị” là gốc rễ, nền tảng vững chắc nhất để xây dựng một nhà nước dân chủ, pháp quyền, vững vàng đi lên chủ nghĩa xã hội. “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong. Có gì sung sướng vẻ vang hơn là trau dồi đạo đức cách mạng để góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và giải phóng loài người”[17].
Lịch sử cách mạng Việt Nam cho thấy, Hồ Chí Minh đã rất thành công khi xây dựng một nền chính trị – đạo đức kiểu mới cho nhà nước dân chủ. Trên nền tảng Chủ nghĩa Mác – Lênin, với lập trường thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng đã trang bị cơ sở khoa học cho những giá trị nhân đạo, nhân văn của “Đức trị” trở thành hiện thực trong đời sống xã hội. Đây là yếu tố quan trọng góp phần làm nên chiến thắng của hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc, góp phần tích cực trong cuộc chiến đấu chống lại áp bức, bóc lột và giải phóng loài người.
3. Pháp trị là chuẩn mực để xây dựng Nhà nước pháp quyền
Khái niệm “Pháp trị” theo tư tưởng của Hàn Phi Tử (281 – 233 TCN), một triết gia Trung Quốc cổ đại có ý nghĩa dùng pháp luật để cai trị, pháp luật được coi là công cụ của nhà nước, và nhà nước đứng trên pháp luật. Trên cơ sở kế thừa tư tưởng pháp quyền phương Tây, kết hợp vận dụng và phát triển lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, “Pháp trị” trong tư tưởng Hồ Chí Minh gắn với Nhà nước pháp quyền có ý nghĩa là pháp luật cai trị, nghĩa là không ai có thể đứng trên pháp luật, kể cả nhà nước.
Trong tư tưởng của Hồ Chí Minh, một Nhà nước pháp quyền có hiệu lực mạnh là nhà nước được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Người cho rằng, việc nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật thể hiện tính dân chủ, tiến bộ và là sự tồn tại phổ biến của xã hội hiện đại.
Năm 1919, trong Yêu sách của nhân dân An Nam do Hồ Chí Minh đại diện gửi tới Hội nghị Véc-xây có 8 điều thì 4 điều yêu cầu về vấn đề pháp quyền. Trên báo L’Humanité, ngày 2/8/1919, Người viết: “Báo L’Humanité ngày 18/6 mới đây đã đăng văn bản thỉnh cầu của những người An Nam gửi Hội nghị hoà bình đòi ân xá cho tất cả các tù chính trị người bản xứ, đòi cải cách pháp chế ở Đông Dương bằng ban hành những bảo đảm cho người bản xứ cũng như cho người Âu, đòi tự do báo chí, tự do hội họp và lập hội, tự do dạy học, đòi thay thế chế độ sắc lệnh bằng chế độ pháp luật”[18].
Sau đó, Yêu sách của nhân dân An Nam được Người chuyển thành “Việt Nam yêu cầu ca” với nội dung như sau:
“Một xin tha kẻ đồng bào,
Vì chưng chính trị mắc vào tù giam.
Hai xin phép luật sửa sang,
Người Tây người Việt hai phương cùng đồng.
Những toà đặc biệt bất công,
Dám xin bỏ dứt rộng dung dân lành.
…
Bảy xin hiến pháp ban hành,
Trăm đều phải có thần linh pháp quyền”[19].
Như vậy, việc xây dựng nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật là tư tưởng rất đặc sắc của Hồ Chí Minh, được hình thành từ rất sớm, phản ánh nội dung cốt lõi của Nhà nước dân chủ mới và là nguyên tắc xuyên suốt trong hoạt động quản lý nhà nước của Người.
Cách mạng Tháng Tám thành công, dưới sự lãnh đạo của Ðảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã xóa bỏ chính quyền phong kiến và thực dân; xóa bỏ tư tưởng Đức trị của phong kiến và Pháp trị của chủ nghĩa thực dân, để thay vào đó là “đạo đức cách mạng” và pháp luật của chế độ dân chủ nhân dân.
Trên tinh thần “thượng tôn luật pháp”, chỉ một ngày sau khi giành được độc lập, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 3/9/1945, Hồ Chí Minh đề ra sáu nhiệm vụ cấp bách cần phải thực hiện ngay, trong đó có nhiệm vụ phải tiến hành Tổng tuyển cử: “Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có hiến pháp. Nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc TỔNG TUYỂN CỬ với chế độ phổ thông đầu phiếu”[20].
Mặc dù đất nước trong tình cảnh đối diện với muôn vàn khó khăn do thù trong, giặc ngoài gây ra, song cuộc tổng tuyển cử đã được tiến hành chỉ bốn tháng sau ngày độc lập. Ðây là một cuộc phổ thông đầu phiếu được tổ chức nhanh nhất, diễn ra sớm nhất, đưa nhân dân lao động lên nắm chính quyền. Cuộc tổng tuyển cử là bước đầu tiên cho quá trình xây dựng một nhà nước hợp pháp, hợp hiến, thể hiện tư duy nhạy bén, sáng suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh đồng thời dành nhiều tâm huyết để xây dựng pháp luật. Tại kỳ họp thứ 2 Quốc hội khoá I, tháng 10/1946, Quốc hội đã thảo luận và thông qua bản hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam: Hiến pháp năm 1946. Phát biểu tại Phiên họp bế mạc Kỳ họp, Hồ Chí Minh khẳng định: “Hơn 10 ngày nay, các đại biểu đã khó nhọc làm việc. Quốc hội đã thu được một kết quả làm vẻ vang cho đất nước là đã thảo luận xong bản Hiến pháp. Sau khi nước nhà mới tự do được 14 tháng, đã làm thành được bản Hiến pháp đầu tiên trong lịch sử nước nhà. Bản Hiến pháp đó còn là một vết tích lịch sử, Hiến pháp đầu tiên trong cõi Á Đông này nữa… Hiến pháp đó đã nêu một tinh thần đoàn kết chặt chẽ giữa các dân tộc Việt Nam và một tinh thần liêm khiết, công bình của các giai cấp. Chính phủ cố gắng làm theo đúng ba chính sách: Dân sinh, Dân quyền và Dân tộc”[21].
Khi miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đất nước đạt được nhiều thành tựu quan trọng, nhiều quy định trong Hiến pháp năm 1946 đã không còn phù hợp, Hồ Chí Minh chủ trương sửa đổi và ban hành Hiến pháp mới – Hiến pháp năm 1959, bởi lẽ khi điều kiện kinh tế – xã hội thay đổi thì pháp luật cũng phải thay đổi để bảo đảm khả năng điều chỉnh hợp lý các quan hệ xã hội đã phát sinh và định hình.
Ngoài hai bản Hiến pháp 1946 và 1959, trong 24 năm trên cương vị Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh đã chỉ đạo xây dựng 16 đạo luật và trên 1.300 văn bản dưới luật, trong đó có 243 sắc lệnh quy định về tổ chức nhà nước, góp phần hình thành một thể chế bộ máy nhà nước có nhiều nhân tố cơ bản của một Nhà nước pháp quyền. Đây là những con số ấn tượng thể hiện sự quan tâm, coi trọng pháp luật cũng như nêu cao tinh thần “Pháp trị” trong xây dựng Nhà nước pháp quyền của Hồ Chí Minh. Người yêu cầu: Pháp luật của ta là pháp luật dân chủ, phải nghiêm minh và phát huy hiệu lực thực tế. Nhà nước sử dụng pháp luật để quản lý xã hội. Song pháp luật của ta đã có sự thay đổi về chất, mang bản chất của giai cấp công nhân, là một loại hình pháp luật kiểu mới, pháp luật thật sự dân chủ, vì nó bảo vệ quyền tự do, dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động. Báo cáo tại hội nghị chính trị đặc biệt, ngày 27/3/1964, một trong 5 nhiệm vụ để hoàn thành sự nghiệp cách mạng, Hồ Chí Minh nêu rõ: “Tăng cường không ngừng chính quyền nhân dân. Nghiêm chỉnh thực hiện dân chủ với nhân dân, chuyên chính với kẻ địch. Triệt để chấp hành mọi chế độ và pháp luật của Nhà nước”[22].
“Pháp trị” của Hồ Chí Minh trong xây dựng Nhà nước pháp quyền tại Việt Nam, là dân chủ bao giờ cũng đi liền với kỷ cương, phép nước. Quyền dân chủ của người dân phải được thể chế hóa bằng hiến pháp và pháp luật; đồng thời, hệ thống pháp luật phải bảo đảm cho quyền tự do, dân chủ của người dân được tôn trọng trong thực tế. Người nhận định: “Nhà nước ta cũng là nhà nước của đại đa số nhân dân, để thống trị thiểu số phản động, để giữ gìn lợi ích của nhân dân, bằng cách dân chủ chuyên chính của nhân dân”[23]. “Cách mạng Tháng Tám thành công, ta lập ra Chính phủ mới, quân đội, công an, tòa án, pháp luật mới của nhân dân để chống kẻ địch trong và ngoài, và để giữ gìn quyền lợi của nhân dân”[24].
Một trong những điều khó khăn nhất trong thi hành pháp luật là phải bảo đảm được tính khách quan, công bằng, bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật. Hồ Chí Minh yêu cầu pháp luật của ta phải thẳng tay trừng trị kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì. Việc Người bác đơn xin khoan hồng khỏi án tử hình vì biển thủ công quỹ, nhận hối lộ của Đại tá Trần Dụ Châu – Nguyên Cục trưởng Cục Quân nhu năm 1950 đã thể hiện tính nghiêm minh và thực hành pháp luật triệt để của Hồ Chí Minh. Trần Dụ Châu, trên cương vị Cục trưởng Cục Quân nhu đã lợi dụng chức vụ, bớt xén phần cơm áo vốn đã rất thiếu thốn của bộ đội để thỏa mãn nhu cầu hưởng thụ của cá nhân và gia đình. Y bị Tòa án Quân sự kết án tử hình. Dụ Châu và gia đình đã viết đơn kháng án, xin được khoan hồng. Song trước tội lỗi được liệt vào “phá hoại công cuộc kháng chiến” của Đảng và Nhân dân, Hồ Chí Minh vẫn ký lệnh bác đơn kháng án của Trần Dụ Châu và cho tiếp tục thi hành án tử. Chính việc đề cao phép nước của Hồ Chí Minh cho thấy được tư tưởng kết hợp giữa “Đức trị” với “Pháp trị”. Một mặt Người hết lòng rèn luyện, bồi dưỡng cán bộ có đạo đức cách mạng; mặt khác Người cũng nghiêm khắc trừng trị những kẻ làm hại đến tính mệnh và tài sản của nhân dân, làm mất danh dự, uy tín của Đảng và Nhà nước, làm phương hại đến sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Trên cương vị là Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh vừa là nhà lập pháp, đồng thời là nhà hành pháp vĩ đại. Người đã cho soạn thảo Tám điều mệnh lệnh của Chính phủ Dân chủ Cộng hòa Việt Nam và nêu rõ: “Toàn thể nhân dân, không phân biệt giai cấp, tín ngưỡng và nghề nghiệp, đều phải giữ gìn trật tự và ra sức ủng hộ chính quyền nhân dân, thật thà hợp tác với quân đội nhân dân, tuân theo pháp luật của Chính phủ và mệnh lệnh của quân đội. Chính quyền và quân đội nhân dân có nhiệm vụ đoàn kết chặt chẽ với nhân dân, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân. Bọn Việt gian, mật thám, cướp bóc, quấy rối hoặc phá hoại trong nhân dân, sẽ bị trừng trị nghiêm khắc”[25].
So với quan điểm của V.Lênin về chính quyền nhà nước không bị hạn chế bởi luật pháp như trong bài “Bàn về lịch sử vấn đề chuyên chính” với luận điểm: “Khái niệm khoa học về chuyên chính không phải cái gì khác hơn là một chính quyền không bị cái gì hạn chế cả, không bị bất cứ luật pháp nào hạn chế, hoàn toàn không bị một quy tắc nào hạn chế cả, và trực tiếp dựa vào bạo lực” thì Hồ Chí Minh lại là một nhà chính trị “Thượng tôn pháp luật”. Người đề ra yêu cầu nhà nước tổ chức xây dựng một hệ thống pháp luật khoa học để quản lý xã hội, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, bảo đảm quyền làm chủ của dân, trong đó, pháp luật được xem là tối thượng. Vì vậy, nhà nước cũng chịu sự chi phối của pháp luật và mọi hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức nhà nước và công chức nhà nước đều phải theo đúng Hiến pháp và pháp luật. “Nước ta là nước dân chủ, nghĩa là nước nhà do nhân dân làm chủ. Nhân dân có quyền lợi làm chủ, thì phải có nghĩa vụ làm tròn bổn phận công dân, giữ đúng đạo đức công dân, tức là: Tuân theo pháp luật Nhà nước…”[26]. Tựu trung lại, trong tư tưởng Hồ Chí Minh thì “Pháp trị” chính là chuẩn mực để xây dựng một nhà nước kiểu mới, dân chủ, pháp quyền.
4. Đức trị và Pháp trị trong tư tưởng Hồ Chí Minh thống nhất, hài hòa và biện chứng
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền Việt Nam là tư tưởng thống nhất, hài hòa và biện chứng giữa “Đức trị” và “Pháp trị”. Về mặt bản chất, “Đức trị” và “Pháp trị” đều là hai mặt của một thể thống nhất, một bản thể duy nhất không tách rời. Việc đề cao “Đức trị” hay “Pháp trị” trong xây dựng Nhà nước pháp quyền cũng đều mang tính phiến diện, không đầy đủ. Vì thế, Hồ Chí Minh vừa coi trọng đạo đức và giáo dục đạo đức, nhưng cũng rất mực đề cao vai trò, sức mạnh của luật pháp. Người nhận rõ: “Luật pháp phải dựa vào đạo đức”. “Phép trị nước” của Hồ Chí Minh là kết hợp cả “Pháp trị” và “Đức trị”, trong đó “Pháp trị” nghiêm khắc, công minh và “Đức trị” bao dung, thấu tình đạt lý; chúng không loại trừ mà thống nhất, bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau. Trong Quốc lệnh do Hồ Chí Minh ban hành ngày 26/1/1946 nêu rõ ràng 10 điều thưởng và 10 điều phạt, cho quân dân biết rõ những tội nên tránh, những việc nên làm. Trong 10 điều khen thưởng có: điều 2: “Ai lập được quân công sẽ được thưởng”. điều 3: “Ai vì nước hy sinh sẽ được thưởng”. điều 5: “Ai làm việc công một cách trong sạch, ngay thẳng sẽ được thưởng”. điều 6: “Ai làm việc gì có lợi cho nước nhà, dân tộc và được dân chúng mến phục sẽ được thưởng”. điều 9: “Ai liều mình về việc công sẽ được thưởng”. Trong 10 điều hình phạt, điều 1: “Thông với giặc, phản quốc sẽ bị xử tử”, điều 6: “Để cho bộ đội hại dân sẽ bị xử tử”, điều 8: “Trộm cắp của công sẽ bị xử tử”[27]. Có thể thấy, Người dùng “đức” để sửa chữa những thói hư tật xấu, lại thưởng, phạt phân minh, ai có công thì khen thưởng, ai có tội thì bị pháp luật trừng trị. Có vậy mới mở rộng dân chủ, ngăn chặn được cái xấu, cái ác, khuyến khích, phát huy cái tốt, cái thiện trong mỗi con người để xây dựng một xã hội trong sạch, vững mạnh.
Hồ Chí Minh đã thúc đẩy ban hành pháp luật một cách kịp thời. Sắc lệnh số 26, ngày 25/2/1946, quy định những hành vi phá hoại tài sản công bị coi là trọng tội, sẽ bị truy tố và phạt tù hoặc xử tử. Sắc lệnh số 142, tháng 11/1946, quy định những hình phạt tội đưa và nhận hối lộ hoặc biển thủ công quỹ. Sắc lệnh số 223, ngày 27/11/1946, ấn định hình phạt đối với tội đưa và nhận hối lộ, biển thủ công quỹ, tài sản công cộng. Với tầm nhìn và trí tuệ của mình, Hồ Chí Minh nhận rõ việc ban hành luật thì dễ nhưng để đưa pháp luật đi vào thực tiễn cuộc sống là công việc muôn vàn khó khăn, phức tạp. Do vậy, Người đặt ra nguyên tắc dân chủ trong sinh hoạt chính trị toàn dân để làm cho mọi hoạt động của Nhà nước được công khai, minh bạch và đặt dưới sự giám sát của nhân dân. Người yêu cầu “Tổ chức Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà: Để thực hiện tốt nhiệm vụ cách mạng, Nhà nước ta phải phát triển quyền dân chủ và sinh hoạt chính trị của toàn dân, để phát huy tính tích cực và sức sáng tạo của nhân dân, làm cho mọi người công dân Việt Nam thực sự tham gia quản lý công việc Nhà nước, ra sức xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà”[28].
Người yêu cầu tăng cường tính nghiêm minh của pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng, đề cao vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên, cán bộ chủ chốt các ngành, các cấp. Chủ tịch Hồ Chí Minh đòi hỏi cán bộ cách mạng phải sẵn sàng chịu đựng mọi gian khổ hy sinh, phải quyết tâm chiến đấu đến cùng vì sự nghiệp cách mạng, phải coi đạo đức cách mạng như phẩm chất đầu tiên của mình: Cũng như sông có nguồn thì mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Năm 1945, Hồ Chí Minh đã đưa ra 23 tiêu chuẩn của người cách mệnh. Đến 10/1947, trong tác phẩm: “Sửa đổi lối làm việc”, Người nêu 12 tiêu chuẩn của Đảng cách mạng chân chính.
Để bảo đảm công bằng và dân chủ trong tuyển dụng cán bộ nhà nước, Người ký Sắc lệnh số 76-SL, ngày 20/5/1950, ban hành Bản quy chế công chức nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Người yêu cầu phải xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ đức và tài: Tuyệt đối trung thành với cách mạng. Hăng hái, thành thạo công việc, giỏi chuyên môn, nghiệp vụ. Phải có mối liên hệ mật thiết với nhân dân. Cán bộ, công chức phải là những người dám phụ trách, dám quyết đoán, dám chịu trách nhiệm, nhất là trong những tình huống khó khăn, “thắng không kiêu, bại không nản”. Phải thường xuyên tự phê bình và phê bình, luôn luôn có ý thức và hành động vì sự lớn mạnh, trong sạch của Nhà nước.
Với Hồ Chí Minh, pháp luật không phải là để trừng trị con người mà là công cụ bảo vệ, thực hiện lợi ích của con người. Tư tưởng pháp quyền trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước thông qua đội ngũ cán bộ, công chức của Người thấm đượm tinh thần nhân văn, nhân ái, tình nghĩa đồng bào theo đạo lý truyền thống của dân tộc Việt Nam. Vì thế, kết hợp giữa Đức trị và Pháp trị trong tổ chức nhà nước của Hồ Chí Minh có nội hàm triết lý, mang đậm tính dân tộc, dân chủ và giá trị thời đại. Sự kết hợp nhuần nhuyễn, thành công giữa “Đức trị” và “Pháp trị” Hồ Chí Minh thể hiện sự vận dụng sáng tạo, linh hoạt lý luận Chủ nghĩa Mác – Lênin vào hoàn cảnh thực tế của Việt Nam.
Có thể nói, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một trong những vấn đề mấu chốt nhất của đổi mới hệ thống chính trị, có ý nghĩa quyết định thành công của công cuộc đổi mới đất nước, đến sự tồn vong của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Bài học về sự kết hợp thống nhất, biện chứng giữa “Đức trị” và “Pháp trị” trong tư tưởng của Hồ Chí Minh luôn là kim chỉ nam và là nguyên tắc cơ bản để cho chúng ta có thể xây dựng được một Nhà nước pháp quyền mạnh mẽ, thực sự trở thành nhà nước của dân, do dân và vì dân.
PGS.TS Nguyễn Xuân Trung
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
Hơn 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, Đảng ta luôn quan tâm, chú trọng đến vấn đề xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Đại hội XII của Đảng khẳng định: “Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị”. Từ đây, tư duy lý luận của Đảng về Nhà nước pháp quyền đã được hoàn thiện thêm một bước. Những định hướng sâu sắc và toàn diện cùng những yêu cầu then chốt về vấn đề xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tạo cơ sở cho toàn bộ quá trình xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu phát triển trong thời kỳ mới. Bởi vậy, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta cần nhận thức và quán triệt một cách đầy đủ, sâu sắc tư tưởng nhân văn và cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền, nhất là trong việc phát huy mối quan hệ biện chứng, thống nhất giữa “Đức trị” và “Pháp trị” Hồ Chí Minh, nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền – tư tưởng nhân văn, ưu việt và tiến bộ
Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền được gắn liền với tư tưởng phát triển dân chủ đã hình thành từ thời cổ đại với những đại diện tiêu biểu là Xôcrat, Arixtốt, Xixêrôn và được các nhà tư tưởng chính trị và pháp lý tư bản như Giôn Lốccơ, Môngtexkiơ, I.Kant hay Hêghen tiếp tục hoàn thiện và phát triển. Đến nay, các học giả, các nhà nghiên cứu đều có chung một nhận định: Nhà nước pháp quyền không phải một kiểu nhà nước, mà là một cách thức tổ chức nền dân chủ, cách thức tổ chức nhà nước và xã hội trên nền tảng dân chủ. Đó là nhà nước mà phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy nhà nước do pháp luật quy định và thừa nhận tính tối cao của pháp luật; bao hàm việc xác định rõ quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, với hệ thống pháp luật đầy đủ, rõ ràng, minh bạch, thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân để điều chỉnh những quan hệ pháp luật phát sinh trong xã hội, nhất là việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, của con người.
Bằng thực tiễn nghiên cứu, trải nghiệm các phong trào cách mạng và quá trình hình thành, phát triển của nhiều nhà nước trên thế giới, trên nền tảng văn hóa truyền thống cùng lịch sử hàng nghìn năm dựng nước, giữ nước của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại một di sản to lớn về vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Đó là sự vận dụng sáng tạo học thuyết về nhà nước của các nhà kinh điển Mác -Lênin; là tư tưởng về Nhà nước pháp quyền mang đậm dấu ấn cá nhân với tính chất nhân văn, ưu việt và tiến bộ hơn hẳn so với các nhà lý luận đi trước.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền có thể gói gọn trong 4 nội dung chủ yếu là:
Thứ nhất, Nhà nước pháp quyền phải là nhà nước dân chủ, của dân, do dân và vì dân. Theo Hồ Chí Minh, vấn đề cơ bản của nhà nước là quyền lực thuộc về ai và phục vụ quyền lợi của ai. Vì thế, Người khẳng định trong Nhà nước pháp quyền, nhân dân là chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực nhà nước. Người cho rằng: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân… Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra”, “tất cả quyền lực trong nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đều thuộc về nhân dân”[1]. Quan điểm này được hình thành trên nền tảng lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin về bản chất dân chủ trong nhà nước và chủ thể quyền lực nhà nước phải thuộc về đa số; chỉ có nhà nước mà quyền lực thuộc về nhân dân thì nhà nước mới có thể quản lý được xã hội phù hợp với quy luật, phục vụ lợi ích nhân dân. Người căn dặn: “Chúng ta hiểu rằng, các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật. Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”[2]. Đó là một quan điểm thấm đẫm tinh thần nhân văn, nhân đạo của Hồ Chí Minh.
Thứ hai, Nhà nước pháp quyền phải là một nhà nước tôn trọng pháp luật, được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Thực tế, Hồ Chí Minh không dùng khái niệm “Nhà nước pháp quyền” mà gọi đó là “nhà nước kiểu mới” với nhận thức rất đầy đủ và nghiêm túc vai trò quan trọng của pháp luật trong quản lý, điều hành xã hội. Đó là một xã hội mà người dân được hưởng mọi quyền dân chủ, có quyền làm bất cứ việc gì mà pháp luật không cấm, đồng thời có nghĩa vụ tuân theo pháp luật. Đây là quan niệm tiến bộ, rất phù hợp với xu thế phát triển đi lên của nhân loại và thời đại.
Thứ ba, Nhà nước pháp quyền kiểu mới phải là nhà nước trong sạch, vững mạnh, hiệu quả; phải khắc phục được những căn bệnh cố hữu của các nhà nước kiểu cũ. Hồ Chí Minh quan niệm một nhà nước vững mạnh, có hiệu lực phải là một Nhà nước pháp quyền “mạnh mẽ và sáng suốt”. Người chỉ rõ: Nhà nước đó phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân, phải làm cho mọi người dân sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Để đạt được mục tiêu đó, bên cạnh việc xây dựng một thiết chế của nhà nước dân chủ, một trong những mối quan tâm của Người là đào tạo và bồi dưỡng được một đội ngũ cán bộ chính quyền đúng với bản chất của Nhà nước, với những tiêu chuẩn chặt chẽ, thấm nhuần tinh thần “nhân dân là người chủ, mà Chính phủ là người đày tớ trung thành của nhân dân”[3]. Quan điểm này được kế thừa trên nền tảng tư tưởng Mác – Lênin về xây dựng bộ máy nhà nước chất lượng kiểu mẫu thật sự, song tỏ ra ưu việt hơn ở chỗ nó được cải biến phù hợp với con người, với phẩm chất và truyền thống của dân tộc Việt Nam.
Bốn là, Nhà nước pháp quyền Việt Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo, có sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân và tính dân tộc rộng rãi. Hồ Chí Minh khẳng định bản chất giai cấp công nhân và nhấn mạnh tính dân tộc, tính nhân dân sâu sắc của Nhà nước kiểu mới là nền tảng để thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Nhà nước ta phát huy dân chủ đến cao độ, đó là do tính chất Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân. Có phát huy dân chủ đến cao độ thì mới động viên được tất cả lực lượng của nhân dân đưa cách mạng tiến lên. Đồng thời phải tập trung đến cao độ để thống nhất lãnh đạo nhân dân xây dựng chủ nghĩa xã hội”[4]. Đây là sự kế thừa có phát triển nguyên tắc xây dựng nhà nước của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin, nhà nước phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo, mọi hoạt động của nhà nước đều nhằm phục vụ lợi ích tối cao của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Vì vậy, Hồ Chí Minh cho rằng, Nhà nước phải phát huy dân chủ, phải làm cho việc thực hành dân chủ là công việc thường xuyên, tự giác trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội vì “thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn”[5].
Những quan điểm về Nhà nước pháp quyền, nhà nước kiểu mới của Hồ Chí Minh đến nay về cơ bản còn nguyên giá trị và là phương pháp luận quan trọng mà chúng ta cần nghiêm túc quán triệt để vận dụng sáng tạo, phù hợp vào điều kiện cụ thể của đất nước nhằm xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
2. “Đức trị” trong tư tưởng Hồ Chí Minh là gốc rễ của quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền
Xét về nguồn gốc, Đức trị là học thuyết chính trị do Khổng Tử (551- 479 tr.CN) khởi xướng, có nghĩa “Chính trị là đạo đức”. Các nhà Đức trị cho rằng: chính trị là sự tiếp tục của đạo đức và chủ trương đưa đạo đức trở thành đường lối chính trị. Đức trị là học thuyết của người quân tử, hàm ý người quân tử phải hội đủ Đức và Đạo, trong đó, Đạo là tu thân – tề gia – trị quốc – bình thiên hạ; Đức là nhân – lễ – nghĩa – trí – tín.
Sinh ra trong một gia đình nhà Nho yêu nước, thấm nhuần tư tưởng Nho giáo lấy “dân vi bang bản” (tức coi dân là gốc nước), “dân vi quí, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” (tức dân là quý nhất, thứ nhì là xã tắc, cuối cùng mới đến vua), Hồ Chí Minh đã tìm thấy trong học thuyết “Đức trị” những yếu tố tích cực và tiếp nhận với tinh thần rộng mở, không định kiến, không cố chấp. Đồng thời, Người vận dụng sáng tạo học thuyết Mác – Lênin để mở rộng và nâng tầm ý nghĩa của quan điểm “Đức trị” cho phù hợp với những yêu cầu của thực tiễn cách mạng Việt Nam.
“Đức trị” trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền là một nhà nước: do Đảng chân chính và cách mạng lãnh đạo, một đảng là đạo đức, là văn minh, “Ngoài lợi ích của nhân dân và của giai cấp công nhân, Đảng ta không có lợi ích nào khác”[6]. Đồng thời, là nhà nước có những con người thấm nhuần đạo đức xã hội chủ nghĩa, hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân. “Đức trị” trong tư tưởng Hồ Chí Minh còn mang hàm ý “việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”; đồng thời ra sức nêu gương, tăng cường giáo dục, rèn luyện đạo đức mới cho cán bộ, đảng viên, cho nhân dân, để hình thành con người mới, phù hợp với xã hội mới.
Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, bộ máy nhà nước được thiết lập theo nguyên tắc “mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân”, đưa nhân dân lao động trở thành người chủ của xã hội. Ngay khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”[7] nên “Các công việc của Chính phủ làm phải nhằm vào một mục đích duy nhất là mưu tự do hạnh phúc cho mọi người. Cho nên Chính phủ nhân dân bao giờ cũng phải đặt quyền lợi dân lên trên hết thảy. Việc gì có lợi cho dân thì làm. Việc gì có hại cho dân thì phải tránh”[8]. Đây là tư tưởng nhất quán, xuyên suốt quá trình lãnh đạo và chỉ đạo cách mạng Việt Nam của Hồ Chủ tịch.
Thực tiễn cho thấy, nền chính trị mà Hồ Chí Minh xây dựng là một nền chính trị đạo đức. Đạo đức cao nhất mà Người đưa ra là “đạo đức cách mạng”. Mục tiêu mà suốt đời Người đeo đuổi, phấn đấu là: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”[9]. Người cho rằng đạo đức là để phục vụ cho xã hội, cho nhân dân, cho sự nghiệp giải phóng loài người. Như vậy, tư tưởng đạo đức và tư tưởng về chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh không tách rời nhau mà thống nhất với nhau. Các phạm trù của học thuyết “Đức trị” đã được Hồ Chí Minh tiếp thu và phát triển, thấm đượm bản chất giai cấp, tính nhân dân và tính chiến đấu để trở thành những phạm trù “Đạo đức cách mạng”. Nội dung của “Đạo đức cách mạng” Hồ Chí Minh có sự khác biệt về chất so với đạo đức phong kiến. Người khẳng định: “…Đạo đức đó không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người. Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”[10].
Người nêu rõ: “Đạo đức cách mạng là tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân”[11]. Trong bài nói chuyện với Lớp bổ túc cán bộ quân sự Trung ương tổ chức tháng 10/1947, Người căn dặn: “Muốn có đạo đức cách mạng phải có 5 điều sau đây: Trí – Tín – Nhân – Dũng – Liêm”[12]. “Ngày xưa, dưới chế độ phong kiến, những người làm quan không đục khoét dân, thì gọi là LIÊM, chữ liêm ấy chỉ có nghĩa hẹp. Cũng như ngày xưa trung là trung với vua. Hiếu là hiếu với cha mẹ mình thôi. Ngày nay, nước ta là Dân chủ Cộng hoà, chữ LIÊM có nghĩa rộng hơn; là mọi người đều phải LIÊM. Cũng như trung là trung với Tổ quốc, hiếu là hiếu với Nhân dân”[13]. Người nhiều lần đề cập tới yêu cầu của người cán bộ, đảng viên là: “Người cán bộ cách mạng phải có đạo đức cách mạng. Phải giữ vững đạo đức cách mạng mới là người cán bộ cách mạng chân chính. Đạo đức cách mạng có thể nói tóm tắt là: Nhận rõ phải, trái. Giữ vững lập trường. Tận trung với nước. Tận hiếu với dân. Mọi việc thành hay là bại, chủ chốt là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng, hay là không”[14].
Như vậy, các tiêu chuẩn đạo đức cách mạng của Hồ Chí Minh có nguồn gốc từ “Đức trị”, song đã được Người vận dụng, sáng tạo, bổ sung phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tiễn của đất nước và con người Việt Nam. So với lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, quan điểm của Hồ Chí Minh về “đạo đức cách mạng”, về “Đức trị” thể hiện tư duy độc lập, sáng tạo, có sự kế thừa và phát triển trên tinh thần khoa học nhưng thấm đẫm tinh thần nhân văn, dân tộc.
Trong suốt cuộc đời của mình, Hồ Chí Minh luôn kiên trì với hai nguyên tắc: Nói đi đôi với làm và gương mẫu nêu gương. Cùng với việc từng bước xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hoàn thiện về cả ba mặt lập pháp, hành pháp và tư pháp, Người suốt đời phục vụ cho sự nghiệp cách mạng, phấn đấu tu dưỡng, rèn luyện đạo đức và kiên trì giáo dục cán bộ, đảng viên, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo, quản lý trong tổ chức bộ máy nhà nước. Người căn dặn: “Trong giáo dục không những phải có tri thức phổ thông mà phải có đạo đức cách mạng. Có tài phải có đức. Có tài không có đức, tham ô hủ hoá có hại cho nước. Có đức không có tài như ông bụt ngồi trong chùa, không giúp ích gì được ai”[15]. Nhờ có đạo đức cách mạng làm nền tảng mà người cán bộ của Đảng mới hoàn thành được sứ mệnh vẻ vang, làm tròn bổn phận với Tổ quốc, với nhân dân: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”[16].
Bản thân Hồ Chí Minh chính là tấm gương điển hình mẫu mực của nền chính trị đạo đức. Chính bởi tầm vóc, tư tưởng và trí tuệ Hồ Chí Minh đã thuyết phục được các sĩ phu yêu nước cũ điển hình như cụ Huỳnh Thúc Kháng, Phan Kế Toại và đông đảo trí thức tân học tin tưởng và đi theo sự lãnh đạo của Đảng. Nếu như “đạo đức cách mạng” là yêu cầu cơ bản, là cái gốc của người cán bộ thì “Đức trị” là gốc rễ, nền tảng vững chắc nhất để xây dựng một nhà nước dân chủ, pháp quyền, vững vàng đi lên chủ nghĩa xã hội. “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong. Có gì sung sướng vẻ vang hơn là trau dồi đạo đức cách mạng để góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và giải phóng loài người”[17].
Lịch sử cách mạng Việt Nam cho thấy, Hồ Chí Minh đã rất thành công khi xây dựng một nền chính trị – đạo đức kiểu mới cho nhà nước dân chủ. Trên nền tảng Chủ nghĩa Mác – Lênin, với lập trường thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng đã trang bị cơ sở khoa học cho những giá trị nhân đạo, nhân văn của “Đức trị” trở thành hiện thực trong đời sống xã hội. Đây là yếu tố quan trọng góp phần làm nên chiến thắng của hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc, góp phần tích cực trong cuộc chiến đấu chống lại áp bức, bóc lột và giải phóng loài người.
3. Pháp trị là chuẩn mực để xây dựng Nhà nước pháp quyền
Khái niệm “Pháp trị” theo tư tưởng của Hàn Phi Tử (281 – 233 TCN), một triết gia Trung Quốc cổ đại có ý nghĩa dùng pháp luật để cai trị, pháp luật được coi là công cụ của nhà nước, và nhà nước đứng trên pháp luật. Trên cơ sở kế thừa tư tưởng pháp quyền phương Tây, kết hợp vận dụng và phát triển lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, “Pháp trị” trong tư tưởng Hồ Chí Minh gắn với Nhà nước pháp quyền có ý nghĩa là pháp luật cai trị, nghĩa là không ai có thể đứng trên pháp luật, kể cả nhà nước.
Trong tư tưởng của Hồ Chí Minh, một Nhà nước pháp quyền có hiệu lực mạnh là nhà nước được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Người cho rằng, việc nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật thể hiện tính dân chủ, tiến bộ và là sự tồn tại phổ biến của xã hội hiện đại.
Năm 1919, trong Yêu sách của nhân dân An Nam do Hồ Chí Minh đại diện gửi tới Hội nghị Véc-xây có 8 điều thì 4 điều yêu cầu về vấn đề pháp quyền. Trên báo L’Humanité, ngày 2/8/1919, Người viết: “Báo L’Humanité ngày 18/6 mới đây đã đăng văn bản thỉnh cầu của những người An Nam gửi Hội nghị hoà bình đòi ân xá cho tất cả các tù chính trị người bản xứ, đòi cải cách pháp chế ở Đông Dương bằng ban hành những bảo đảm cho người bản xứ cũng như cho người Âu, đòi tự do báo chí, tự do hội họp và lập hội, tự do dạy học, đòi thay thế chế độ sắc lệnh bằng chế độ pháp luật”[18].
Sau đó, Yêu sách của nhân dân An Nam được Người chuyển thành “Việt Nam yêu cầu ca” với nội dung như sau:
“Một xin tha kẻ đồng bào,
Vì chưng chính trị mắc vào tù giam.
Hai xin phép luật sửa sang,
Người Tây người Việt hai phương cùng đồng.
Những toà đặc biệt bất công,
Dám xin bỏ dứt rộng dung dân lành.
…
Bảy xin hiến pháp ban hành,
Trăm đều phải có thần linh pháp quyền”[19].
Như vậy, việc xây dựng nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật là tư tưởng rất đặc sắc của Hồ Chí Minh, được hình thành từ rất sớm, phản ánh nội dung cốt lõi của Nhà nước dân chủ mới và là nguyên tắc xuyên suốt trong hoạt động quản lý nhà nước của Người.
Cách mạng Tháng Tám thành công, dưới sự lãnh đạo của Ðảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã xóa bỏ chính quyền phong kiến và thực dân; xóa bỏ tư tưởng Đức trị của phong kiến và Pháp trị của chủ nghĩa thực dân, để thay vào đó là “đạo đức cách mạng” và pháp luật của chế độ dân chủ nhân dân.
Trên tinh thần “thượng tôn luật pháp”, chỉ một ngày sau khi giành được độc lập, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 3/9/1945, Hồ Chí Minh đề ra sáu nhiệm vụ cấp bách cần phải thực hiện ngay, trong đó có nhiệm vụ phải tiến hành Tổng tuyển cử: “Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có hiến pháp. Nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc TỔNG TUYỂN CỬ với chế độ phổ thông đầu phiếu”[20].
Mặc dù đất nước trong tình cảnh đối diện với muôn vàn khó khăn do thù trong, giặc ngoài gây ra, song cuộc tổng tuyển cử đã được tiến hành chỉ bốn tháng sau ngày độc lập. Ðây là một cuộc phổ thông đầu phiếu được tổ chức nhanh nhất, diễn ra sớm nhất, đưa nhân dân lao động lên nắm chính quyền. Cuộc tổng tuyển cử là bước đầu tiên cho quá trình xây dựng một nhà nước hợp pháp, hợp hiến, thể hiện tư duy nhạy bén, sáng suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh đồng thời dành nhiều tâm huyết để xây dựng pháp luật. Tại kỳ họp thứ 2 Quốc hội khoá I, tháng 10/1946, Quốc hội đã thảo luận và thông qua bản hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam: Hiến pháp năm 1946. Phát biểu tại Phiên họp bế mạc Kỳ họp, Hồ Chí Minh khẳng định: “Hơn 10 ngày nay, các đại biểu đã khó nhọc làm việc. Quốc hội đã thu được một kết quả làm vẻ vang cho đất nước là đã thảo luận xong bản Hiến pháp. Sau khi nước nhà mới tự do được 14 tháng, đã làm thành được bản Hiến pháp đầu tiên trong lịch sử nước nhà. Bản Hiến pháp đó còn là một vết tích lịch sử, Hiến pháp đầu tiên trong cõi Á Đông này nữa… Hiến pháp đó đã nêu một tinh thần đoàn kết chặt chẽ giữa các dân tộc Việt Nam và một tinh thần liêm khiết, công bình của các giai cấp. Chính phủ cố gắng làm theo đúng ba chính sách: Dân sinh, Dân quyền và Dân tộc”[21].
Khi miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đất nước đạt được nhiều thành tựu quan trọng, nhiều quy định trong Hiến pháp năm 1946 đã không còn phù hợp, Hồ Chí Minh chủ trương sửa đổi và ban hành Hiến pháp mới – Hiến pháp năm 1959, bởi lẽ khi điều kiện kinh tế – xã hội thay đổi thì pháp luật cũng phải thay đổi để bảo đảm khả năng điều chỉnh hợp lý các quan hệ xã hội đã phát sinh và định hình.
Ngoài hai bản Hiến pháp 1946 và 1959, trong 24 năm trên cương vị Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh đã chỉ đạo xây dựng 16 đạo luật và trên 1.300 văn bản dưới luật, trong đó có 243 sắc lệnh quy định về tổ chức nhà nước, góp phần hình thành một thể chế bộ máy nhà nước có nhiều nhân tố cơ bản của một Nhà nước pháp quyền. Đây là những con số ấn tượng thể hiện sự quan tâm, coi trọng pháp luật cũng như nêu cao tinh thần “Pháp trị” trong xây dựng Nhà nước pháp quyền của Hồ Chí Minh. Người yêu cầu: Pháp luật của ta là pháp luật dân chủ, phải nghiêm minh và phát huy hiệu lực thực tế. Nhà nước sử dụng pháp luật để quản lý xã hội. Song pháp luật của ta đã có sự thay đổi về chất, mang bản chất của giai cấp công nhân, là một loại hình pháp luật kiểu mới, pháp luật thật sự dân chủ, vì nó bảo vệ quyền tự do, dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động. Báo cáo tại hội nghị chính trị đặc biệt, ngày 27/3/1964, một trong 5 nhiệm vụ để hoàn thành sự nghiệp cách mạng, Hồ Chí Minh nêu rõ: “Tăng cường không ngừng chính quyền nhân dân. Nghiêm chỉnh thực hiện dân chủ với nhân dân, chuyên chính với kẻ địch. Triệt để chấp hành mọi chế độ và pháp luật của Nhà nước”[22].
“Pháp trị” của Hồ Chí Minh trong xây dựng Nhà nước pháp quyền tại Việt Nam, là dân chủ bao giờ cũng đi liền với kỷ cương, phép nước. Quyền dân chủ của người dân phải được thể chế hóa bằng hiến pháp và pháp luật; đồng thời, hệ thống pháp luật phải bảo đảm cho quyền tự do, dân chủ của người dân được tôn trọng trong thực tế. Người nhận định: “Nhà nước ta cũng là nhà nước của đại đa số nhân dân, để thống trị thiểu số phản động, để giữ gìn lợi ích của nhân dân, bằng cách dân chủ chuyên chính của nhân dân”[23]. “Cách mạng Tháng Tám thành công, ta lập ra Chính phủ mới, quân đội, công an, tòa án, pháp luật mới của nhân dân để chống kẻ địch trong và ngoài, và để giữ gìn quyền lợi của nhân dân”[24].
Một trong những điều khó khăn nhất trong thi hành pháp luật là phải bảo đảm được tính khách quan, công bằng, bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật. Hồ Chí Minh yêu cầu pháp luật của ta phải thẳng tay trừng trị kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì. Việc Người bác đơn xin khoan hồng khỏi án tử hình vì biển thủ công quỹ, nhận hối lộ của Đại tá Trần Dụ Châu – Nguyên Cục trưởng Cục Quân nhu năm 1950 đã thể hiện tính nghiêm minh và thực hành pháp luật triệt để của Hồ Chí Minh. Trần Dụ Châu, trên cương vị Cục trưởng Cục Quân nhu đã lợi dụng chức vụ, bớt xén phần cơm áo vốn đã rất thiếu thốn của bộ đội để thỏa mãn nhu cầu hưởng thụ của cá nhân và gia đình. Y bị Tòa án Quân sự kết án tử hình. Dụ Châu và gia đình đã viết đơn kháng án, xin được khoan hồng. Song trước tội lỗi được liệt vào “phá hoại công cuộc kháng chiến” của Đảng và Nhân dân, Hồ Chí Minh vẫn ký lệnh bác đơn kháng án của Trần Dụ Châu và cho tiếp tục thi hành án tử. Chính việc đề cao phép nước của Hồ Chí Minh cho thấy được tư tưởng kết hợp giữa “Đức trị” với “Pháp trị”. Một mặt Người hết lòng rèn luyện, bồi dưỡng cán bộ có đạo đức cách mạng; mặt khác Người cũng nghiêm khắc trừng trị những kẻ làm hại đến tính mệnh và tài sản của nhân dân, làm mất danh dự, uy tín của Đảng và Nhà nước, làm phương hại đến sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Trên cương vị là Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh vừa là nhà lập pháp, đồng thời là nhà hành pháp vĩ đại. Người đã cho soạn thảo Tám điều mệnh lệnh của Chính phủ Dân chủ Cộng hòa Việt Nam và nêu rõ: “Toàn thể nhân dân, không phân biệt giai cấp, tín ngưỡng và nghề nghiệp, đều phải giữ gìn trật tự và ra sức ủng hộ chính quyền nhân dân, thật thà hợp tác với quân đội nhân dân, tuân theo pháp luật của Chính phủ và mệnh lệnh của quân đội. Chính quyền và quân đội nhân dân có nhiệm vụ đoàn kết chặt chẽ với nhân dân, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân. Bọn Việt gian, mật thám, cướp bóc, quấy rối hoặc phá hoại trong nhân dân, sẽ bị trừng trị nghiêm khắc”[25].
So với quan điểm của V.Lênin về chính quyền nhà nước không bị hạn chế bởi luật pháp như trong bài “Bàn về lịch sử vấn đề chuyên chính” với luận điểm: “Khái niệm khoa học về chuyên chính không phải cái gì khác hơn là một chính quyền không bị cái gì hạn chế cả, không bị bất cứ luật pháp nào hạn chế, hoàn toàn không bị một quy tắc nào hạn chế cả, và trực tiếp dựa vào bạo lực” thì Hồ Chí Minh lại là một nhà chính trị “Thượng tôn pháp luật”. Người đề ra yêu cầu nhà nước tổ chức xây dựng một hệ thống pháp luật khoa học để quản lý xã hội, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, bảo đảm quyền làm chủ của dân, trong đó, pháp luật được xem là tối thượng. Vì vậy, nhà nước cũng chịu sự chi phối của pháp luật và mọi hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức nhà nước và công chức nhà nước đều phải theo đúng Hiến pháp và pháp luật. “Nước ta là nước dân chủ, nghĩa là nước nhà do nhân dân làm chủ. Nhân dân có quyền lợi làm chủ, thì phải có nghĩa vụ làm tròn bổn phận công dân, giữ đúng đạo đức công dân, tức là: Tuân theo pháp luật Nhà nước…”[26]. Tựu trung lại, trong tư tưởng Hồ Chí Minh thì “Pháp trị” chính là chuẩn mực để xây dựng một nhà nước kiểu mới, dân chủ, pháp quyền.
4. Đức trị và Pháp trị trong tư tưởng Hồ Chí Minh thống nhất, hài hòa và biện chứng
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền Việt Nam là tư tưởng thống nhất, hài hòa và biện chứng giữa “Đức trị” và “Pháp trị”. Về mặt bản chất, “Đức trị” và “Pháp trị” đều là hai mặt của một thể thống nhất, một bản thể duy nhất không tách rời. Việc đề cao “Đức trị” hay “Pháp trị” trong xây dựng Nhà nước pháp quyền cũng đều mang tính phiến diện, không đầy đủ. Vì thế, Hồ Chí Minh vừa coi trọng đạo đức và giáo dục đạo đức, nhưng cũng rất mực đề cao vai trò, sức mạnh của luật pháp. Người nhận rõ: “Luật pháp phải dựa vào đạo đức”. “Phép trị nước” của Hồ Chí Minh là kết hợp cả “Pháp trị” và “Đức trị”, trong đó “Pháp trị” nghiêm khắc, công minh và “Đức trị” bao dung, thấu tình đạt lý; chúng không loại trừ mà thống nhất, bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau. Trong Quốc lệnh do Hồ Chí Minh ban hành ngày 26/1/1946 nêu rõ ràng 10 điều thưởng và 10 điều phạt, cho quân dân biết rõ những tội nên tránh, những việc nên làm. Trong 10 điều khen thưởng có: điều 2: “Ai lập được quân công sẽ được thưởng”. điều 3: “Ai vì nước hy sinh sẽ được thưởng”. điều 5: “Ai làm việc công một cách trong sạch, ngay thẳng sẽ được thưởng”. điều 6: “Ai làm việc gì có lợi cho nước nhà, dân tộc và được dân chúng mến phục sẽ được thưởng”. điều 9: “Ai liều mình về việc công sẽ được thưởng”. Trong 10 điều hình phạt, điều 1: “Thông với giặc, phản quốc sẽ bị xử tử”, điều 6: “Để cho bộ đội hại dân sẽ bị xử tử”, điều 8: “Trộm cắp của công sẽ bị xử tử”[27]. Có thể thấy, Người dùng “đức” để sửa chữa những thói hư tật xấu, lại thưởng, phạt phân minh, ai có công thì khen thưởng, ai có tội thì bị pháp luật trừng trị. Có vậy mới mở rộng dân chủ, ngăn chặn được cái xấu, cái ác, khuyến khích, phát huy cái tốt, cái thiện trong mỗi con người để xây dựng một xã hội trong sạch, vững mạnh.
Hồ Chí Minh đã thúc đẩy ban hành pháp luật một cách kịp thời. Sắc lệnh số 26, ngày 25/2/1946, quy định những hành vi phá hoại tài sản công bị coi là trọng tội, sẽ bị truy tố và phạt tù hoặc xử tử. Sắc lệnh số 142, tháng 11/1946, quy định những hình phạt tội đưa và nhận hối lộ hoặc biển thủ công quỹ. Sắc lệnh số 223, ngày 27/11/1946, ấn định hình phạt đối với tội đưa và nhận hối lộ, biển thủ công quỹ, tài sản công cộng. Với tầm nhìn và trí tuệ của mình, Hồ Chí Minh nhận rõ việc ban hành luật thì dễ nhưng để đưa pháp luật đi vào thực tiễn cuộc sống là công việc muôn vàn khó khăn, phức tạp. Do vậy, Người đặt ra nguyên tắc dân chủ trong sinh hoạt chính trị toàn dân để làm cho mọi hoạt động của Nhà nước được công khai, minh bạch và đặt dưới sự giám sát của nhân dân. Người yêu cầu “Tổ chức Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà: Để thực hiện tốt nhiệm vụ cách mạng, Nhà nước ta phải phát triển quyền dân chủ và sinh hoạt chính trị của toàn dân, để phát huy tính tích cực và sức sáng tạo của nhân dân, làm cho mọi người công dân Việt Nam thực sự tham gia quản lý công việc Nhà nước, ra sức xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà”[28].
Người yêu cầu tăng cường tính nghiêm minh của pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng, đề cao vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên, cán bộ chủ chốt các ngành, các cấp. Chủ tịch Hồ Chí Minh đòi hỏi cán bộ cách mạng phải sẵn sàng chịu đựng mọi gian khổ hy sinh, phải quyết tâm chiến đấu đến cùng vì sự nghiệp cách mạng, phải coi đạo đức cách mạng như phẩm chất đầu tiên của mình: Cũng như sông có nguồn thì mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Năm 1945, Hồ Chí Minh đã đưa ra 23 tiêu chuẩn của người cách mệnh. Đến 10/1947, trong tác phẩm: “Sửa đổi lối làm việc”, Người nêu 12 tiêu chuẩn của Đảng cách mạng chân chính.
Để bảo đảm công bằng và dân chủ trong tuyển dụng cán bộ nhà nước, Người ký Sắc lệnh số 76-SL, ngày 20/5/1950, ban hành Bản quy chế công chức nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Người yêu cầu phải xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ đức và tài: Tuyệt đối trung thành với cách mạng. Hăng hái, thành thạo công việc, giỏi chuyên môn, nghiệp vụ. Phải có mối liên hệ mật thiết với nhân dân. Cán bộ, công chức phải là những người dám phụ trách, dám quyết đoán, dám chịu trách nhiệm, nhất là trong những tình huống khó khăn, “thắng không kiêu, bại không nản”. Phải thường xuyên tự phê bình và phê bình, luôn luôn có ý thức và hành động vì sự lớn mạnh, trong sạch của Nhà nước.
Với Hồ Chí Minh, pháp luật không phải là để trừng trị con người mà là công cụ bảo vệ, thực hiện lợi ích của con người. Tư tưởng pháp quyền trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước thông qua đội ngũ cán bộ, công chức của Người thấm đượm tinh thần nhân văn, nhân ái, tình nghĩa đồng bào theo đạo lý truyền thống của dân tộc Việt Nam. Vì thế, kết hợp giữa Đức trị và Pháp trị trong tổ chức nhà nước của Hồ Chí Minh có nội hàm triết lý, mang đậm tính dân tộc, dân chủ và giá trị thời đại. Sự kết hợp nhuần nhuyễn, thành công giữa “Đức trị” và “Pháp trị” Hồ Chí Minh thể hiện sự vận dụng sáng tạo, linh hoạt lý luận Chủ nghĩa Mác – Lênin vào hoàn cảnh thực tế của Việt Nam.
Có thể nói, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một trong những vấn đề mấu chốt nhất của đổi mới hệ thống chính trị, có ý nghĩa quyết định thành công của công cuộc đổi mới đất nước, đến sự tồn vong của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Bài học về sự kết hợp thống nhất, biện chứng giữa “Đức trị” và “Pháp trị” trong tư tưởng của Hồ Chí Minh luôn là kim chỉ nam và là nguyên tắc cơ bản để cho chúng ta có thể xây dựng được một Nhà nước pháp quyền mạnh mẽ, thực sự trở thành nhà nước của dân, do dân và vì dân.
hơi dài