Hãy phân tích và chứng minh rằng ngôn từ nghệ thuật trong Truyện Kiều của Nguyễn Du vừa có tính chất bác học vừa có tính chất bình dân?
Hãy phân tích và chứng minh rằng ngôn từ nghệ thuật trong Truyện Kiều của Nguyễn Du vừa có tính chất bác học vừa có tính chất bình dân?
1. Mở đầu
Hệ thống ngôn từ trong Truyện Kiều là cả một thế giới phong phú, đa dạng, sâu sắc, là một phức thể đa chiều kích, đa nghĩa và giàu giá trị văn hóa. Một trong những nguyên nhân tạo nên sự sinh động, hấp dẫn ấy là nhờ có sự phối kết hợp một cách tuyệt diệu, nhịp nhàng, hợp lý, logic giữa hai khuynh hướng văn hóa bình dân và văn hóa bác học trong ngôn ngữ tác phẩm. Cùng với sự khẳng nhận giá trị bất biến của văn hóa bác học, sự tôn vinh những giá trị văn hóa trong ngôn ngữ bình dị, dân dã của thơ ca dân gian Việt Nam đã góp phần khẳng định Nguyễn Du là một trong những thi nhân đã đóng góp rất nhiều vào quá trình phát triển ngôn ngữ văn học dân tộc. Khi khái quát các triết lý nghệ thuật và nhân sinh, thường tập trung vận dụng các thế mạnh của ngữ liệu bác học. Khi miêu tả thế giới nội tâm nhân vật, Nguyễn Du thường khai thác những chân giá trị của các ngữ liệu văn hóa bình dân. Chính sự khai thác đó đã giúp ông khái quát được những khía cạnh độc đáo, cụ thể, chi tiết trong tâm lý nhân vật, một phương diện nghệ thuật độc đáo mà nhà thơ đã tạo dựng được trong quá trình sáng tạo của mình. Thành tựu tuyệt vời mà tác phẩm của ông mang lại không chỉ làm phong phú, trong sáng ngôn ngữ văn học Nôm nói riêng, mà còn có những ảnh hưởng văn hóa sâu xa và lâu dài đến sự phát triển ngôn ngữ văn học cổ điển Việt Nam nói chung. Bài viết phân tích khuynh hướng văn hóa bình dân và văn hóa bác học trong ngôn ngữ Truyện Kiều của Nguyễn Du.
2. Khuynh hướng văn hóa bình dân trong ngôn ngữ Truyện Kiều
Một số nhà nghiên cứu đã đi sâu tìm hiểu đặc tính bình dị, chân chất, mộc mạc, hấp dẫn, chuẩn xác, cụ thể và nặng về tính miêu tả của hệ thống từ ngữ bình dân (lớp từ cổ, từ địa phương, từ láy thuần Việt hay ngữ liệu âm Hán Việt đã được chuyển dịch và tái cấu trúc theo mô hình từ tiếng Việt) và những giá trị văn hóa cũng như sự vận dụng linh hoạt, sáng tạo và cách tân của hệ thống này trong ngôn ngữ Truyện Kiều. Nó không chỉ phản ánh một cách khách quan nội dung, chủ đề tác phẩm, mà còn góp phần phác hoạ rõ nét một bức tranh hiện thực đa dạng, phức tạp. Ngoài ra, thông qua các ngữ liệu văn hóa bình dân, ngôn ngữ Truyện Kiều còn được khẳng định ở phương diện văn hóa thẩm mỹ, nó có tính chất dung dị, mộc mạc, gần gũi với lời ăn tiếng nói nôm na của dân tộc nên có sức hấp dẫn đối với đông đảo bạn đọc. Đặc biệt, đối với lối khai thác thế mạnh về tính biểu trưng của các ngữ liệu, nhà thơ tạo nên những “tập mờ” ngữ nghĩa, góp phần phản ánh những “suy tư duy lý của các nhân vật về những mâu thuẫn trong cuộc sống và vận mệnh con người” [1, tr.83].
Trong ngôn ngữ Truyện Kiều, ngoài hệ thống từ cổ, từ địa phương, từ láy… thì lớp từ ngữ có phong cách khẩu ngữ quần chúng và từ thuần Việt cũng được xem là những ngữ liệu văn hóa bình dân. Đúng như Phạm Đan Quế [7, tr.345] đã khẳng định, “khẩu ngữ quần chúng là lời ăn tiếng nói nôm na, mộc mạc hàng ngày của cuộc sống vô cùng phức tạp và đầy biến động của nhân dân thuộc đủ mọi tầng lớp”. So với lớp từ ngữ Hán Việt, lớp từ ngữ này vô cùng sinh động, nhiều dáng vẻ và luôn được bổ sung không ngừng qua các thế hệ, thời đại. Nó bao hàm cả những lời nói dung tục, dân dã. Bằng tài năng sáng tạo ngôn từ của mình, Nguyễn Du đã dịch chuyển lớp từ khẩu ngữ có tính chất “quặng thô ngôn ngữ” này vào kho ngữ liệu văn hóa bình dân của Truyện Kiều, góp phần tạo nên sự đặc sắc nhiều mặt, tính đa thanh cho ngôn ngữ tác phẩm. Hệ thống ngữ liệu này không chỉ tạo nên tính chính xác, gợi cảm, hấp dẫn trong miêu tả, mà còn thể hiện giúp tác giả định danh, gọi tên chuẩn xác đối tượng, vấn đề đang được phản ánh, khái quát. Có thể nói, kho tàng vô tận và quý giá của khẩu ngữ quần chúng được Nguyễn Du sử dụng để góp phần khắc hoạ đến từng chi tiết bức tranh xã hội đa sắc, nhiều góc cạnh và thế giới nhân vật sống động, tiêu biểu trong tác phẩm. Nó được sử dụng để thể hiện những ý nghĩ của Mã Giám Sinh, những toan tính dự phòng của hắn để được gần gũi với Thuý Kiều trong đêm đầu tiên ở trú phường:
“Nước vỏ lựu, máu mào gà/Mượn màu chiêu tập lại là còn nguyên.”
Nước vỏ lựu, máu mào gà, còn nguyên… là những “biệt ngữ”, từ ngữ có tính chất nghề nghiệp của lớp người chuyên làm nghề dắt mối, buôn hương đã khiến người đọc nhận diện cái vẻ bất lương của gã họ Mã. Nếu lời chửi bới của Tú Bà là lời của bọn chủ chứa đã ghê thì chúng ta còn thấy lời mắng nhiếc của Hoạn bà còn có phần “kinh khủng” hơn:
“Bất tình nổi trận mây mưa/Dức rằng: Những giống bơ thờ quen than/Con này chẳng phải thiện nhân/Chẳng phường trốn chúa thì quân lộn chồng/Ra tuồng mèo mả gà đồng/ Ra tuồng lúng túng chẳng xong bề nào/Đã đem mình bán cửa tao/Lại còn khủng khỉnh làm cao thế này/Nào là gia pháp nọ bay!/Hãy cho ba chục biết tay một lần.”
Qua 09 câu thơ được trích dẫn trên, ta những tưởng đó không thể nào là ngôn ngữ của một mệnh phụ nhị phẩm, phu nhân quan Lại bộ thượng thư, một quý nhân của nhà họ Hoạn. Trong lời mắng chửi của mình, Hoạn phu nhân dùng toàn từ ngữ có tính chất khẩu ngữ đậm đặc, đó là những biệt ngữ của bọn ưng khuyển giang hồ như: giống bơ thờ, phường trốn chúa, quân lộn chồng… gọi Kiều là con này, bản thân Hoạn Thư thì xưng là tao. Hoạn bà còn dùng thành ngữ như mèo mả gà đồng, khủng khỉnh làm cao… hay những từ có nguồn gốc từ thành ngữ như quen thân (quen thân mất nết, một biến thể của thành ngữ hư thân mất nết). Ngoài ra, Nguyễn Du sử dụng ngữ liệu mây mưa ở đây thật sáng tạo, nó không phải là chuyện gái trai mà được dùng để ám chỉ cơn giận lôi đình của Hoạn lão phu nhân. Trong Truyện Kiều, các từ ngữ có phong cách khẩu ngữ chiếm một tỷ lệ tương đối (331 ngữ liệu) so với toàn bộ từ vựng của thi phẩm. Điều này chứng tỏ, khi viết Truyện Kiều, Nguyễn Du đã tự trang bị cho bản thân mình một vốn từ ngữ cực kỳ phong phú và đa dạng, ông biết tìm kiếm những nội dung ngữ nghĩa mới cho những hình thức quen thuộc (từ mây mưa là một ví dụ). Trong những trường hợp cụ thể khác, nhà thơ đã sử dụng cách nói, kiểu nói rất bình dân, nôm na như “có sá chi”, “cơn cớ gì”, “dơ tuồng”, “chẳng văng vào mặt”, “giống bơ thờ” để diễn tả những dáng vẻngổn ngang, đa diện cuộc sống muôn mặt, một bức tranh phức hợp, những lối nói dân dã, có phần bặm trợn, hèn yếu, kém thế của các nhân vật và sự chiêm nghiệm của chính bản thân nhà thơ trong Truyện Kiều.
Trong ngôn ngữ Thuý Kiều, ông viết:
“Nhưng tôi có sá chi tôi/Phận tôi đành vậy, vốn người để đâu?”
Để thể hiện cái bặm trợn của ngôn ngữ của Tú Bà, ông hạ bút:
“Lão kia có giở bài bây/Chẳng văng vào mặt mà mầy lại nghe!”
Hoặc giả, để thể hiện sự hèn kém của Thúc Sinh, nhà thơ cũng hạ bút:
“Nhân làm sao đến thế này/Thôi thôi, ta đã mắc tay ai rồi!”
Ngay cả khi thể hiện những đánh giá, suy nghĩ của mình, tác giả cũng thường sử dụng những từ ngữ đậm phong cách khẩu ngữ, gần gũi với lời ăn tiếng nói của người bình dân: “Đời người đến thế thì thôi/ Trong cơ âm cực, dương hồi khôn hay!”. “Ông tơ thực nhé đa đoan/Xe tơ sao khéo vơ càn, vơ xiên?”
Có thể nói, hệ thống ngữ liệu văn hóa này vẫn luôn có tính xác thực, cụ thể và hấp dẫn người đọc. Nó phản ánh được tính cách, ngôn ngữ của các nhân vật trong những hoàn cảnh cụ thể. Ngoài ra, nó đã giúp cho nhà thơ có được sự miêu tả sống động một số môi trường xã hội có tính thông tục, khắc hoạ những rung động tinh tế, diễn biến nội tâm phức tạp của một số nhân vật và kể cả những xót xa trong tâm tư của chính tác giả. Khi phân tích, khảo cứu về nguồn gốc bình dân của ngôn ngữ Truyện Kiều, một số nhà nghiên cứu đã có những nhận xét khái quát về phong cách ngôn ngữ của Nguyễn Du, họ cho rằng lời thơ của ông gần gũi với tiếng nói của nhân dân. Nhà thơ đã có sự học tập, tiếp thu và ảnh hưởng tiếng nói của dân tộc, ngôn ngữ văn chương dân gian. Đó cũng chính là cống hiến vĩ đại của Nguyễn Du và Truyện Kiều đối với lịch sử phát triển của ngôn ngữ văn học dân tộc. Vì thế, văn hóa bình dân và bác học có thể được xem là hệ quy chiếu, xuất phát điểm của các hệ thống ngữ liệu trong ngôn ngữ của Truyện Kiều.
Theo chúng tôi, sắc thái bình dân trong ngôn ngữ Truyện Kiều là những nét, yếu tố thẩm mỹ được gợi lên thông qua hệ thống những thành ngữ, tục ngữ, ca dao, hệ thống từ ngữ thuần Việt, hoặc có yếu tố Hán Việt với một lối diễn đạt bình dị, đơn giản đậm chất khẩu ngữ trong sinh hoạt của người Việt. Hệ thống ngữ liệu văn hóa bình dân đã thực sự là ngôn ngữ văn học với khả năng biểu đạt, biểu cảm cực kỳ phong phú. Nó được Nguyễn Du sử dụng, chuyển dẫn và khái quát một cách thần tình, đích đáng và nhuần nhuyễn trong hệ thống ngôn ngữ Truyện Kiều.
3. Khuynh hướng văn hóa bác học trong ngôn ngữ Truyện Kiều
Môi trường văn hóa cổ điển thời trung đại đã được định chế trong khuôn khổ của lễ giáo. Văn hoá truyền thống Việt Nam được vận hành theo nguyên tắc các phạm trù đạo đức Nho gia như Lễ, Trung, Hiếu, Tiết, Nghĩa, Nhân… Đây là những đặc điểm, biểu hiện cụ thể về tư tưởng, quan niệm nhân sinh, ý thức xã hội của các quốc gia chịu ảnh hưởng của văn minh, văn hóa Trung Quốc. Không gian và bối cảnh đời sống văn hóa trong Truyện Kiều đã miêu tả và phản ánh thế giới quan chính thống, mang tính quan phương. Với bối cảnh văn hóa đó, hệ thống ngữ liệu mang tính nghi thức được tác giả sử dụng trong ngôn ngữ tác phẩm luôn tuân thủ những tính quy phạm, chặt chẽ, thể hiện sự tôn nghiêm, cao quý, thanh nhã của xã hội và con người thời bấy giờ. Điều này đã ảnh hưởng một cách cụ thể đến thế giới nghệ thuật tác phẩm và tạo nên dáng vẻ kì vĩ, tôn nghiêm của lâu đài ngôn ngữ của Truyện Kiều.
Trong tiến trình phát triển văn hóa Việt Nam, việc tiếp thu và ảnh hưởng từ văn hóa cổ điển Trung Quốc (hay còn gọi là văn hóa Hán, bác học) vào văn hóa Việt Nam là hiện tượng mang tính lịch sử. Điều đó được thể hiện qua quá trình Hán hóa và chống Hán hóa trong lịch sử nước ta. Đúng như nhà nghiên cứu Phan Ngọc đã nhận xét:
“Sự tiếp thu văn hóa Trung Quốc, người Việt Nam chỉ tiếp thu cái cần thiết của văn hóa Trung Quốc để bảo vệ chủ quyền dân tộc mà thôi, chứ không phải là bắt chước một cách nô lệ, dù cho nhìn bên ngoài khó lòng bảo là không máy móc…” [4, tr.43].
Sự giao lưu và tiếp xúc văn hóa, ngôn ngữ Việt – Hán, nếu trong giai đoạn đầu tuy mang tính cưỡng chế, áp đặt, nằm trong âm mưu đồng hóa văn hóa thì ở những giai đoạn sau lại mang tính chủ động, tích cực. Các triều đại của Việt Nam ở thời kỳ tự chủ đã xây dựng hệ thống chính trị, giáo dục, học thuật, thi cử… theo mô hình của phong kiến phương Bắc. Do đó, về văn hóa, Việt Nam đã tích lũy được những kinh nghiệm từ trong văn hóa Trung Hoa.
Lịch sử văn học trung đại Việt Nam đã vận hành, phát triển trong một hoàn cảnh đặc biệt, vừa ly tâm, vừa hướng tâm đối với văn học, văn hóa cổ điển Trung Hoa. Đó là quá trình vừa tiếp thu học tập nhưng cũng đồng thời sáng tạo, Việt hóa và bồi đắp những đặc điểm mang tính dân tộc ngày càng rõ nét hơn. Do đó, có thể nói, giao lưu văn hóa, ngôn ngữ Việt – Hán và đặc biệt là quá trình hình thành ngôn ngữ văn chương thời trung đại đã để lại một dấu ấn đậm nét trong các tác phẩm văn học cổ điển Việt Nam, cụ thể đó là hai hệ thống ngữ liệu Hán Việt và thuần Việt trong ngôn ngữ nghệ thuật thể loại truyện thơ Nôm và Ngâm khúc Hán Nôm của văn học cổ điển Việt Nam. Giá trị thẩm mỹ của hệ thống ngữ liệu (là những dẫn chứng, dẫn liệu ngôn ngữ, nó có thể được trích dẫn, khai thác phục vụ cho quá trình nghiên cứu về nội dung, nghệ thuật của một tác phẩm) có nguồn gốc từ văn hóa bác học, văn hóa, văn chương cổ điển Trung Hoa đã ảnh hưởng trực tiếp đến ngôn ngữ truyện thơ Nôm bác học. Nguyễn Đức Tồn trong Đặc trưng văn hóa – dân tộc của ngôn ngữ và tư duy gọi các ngữ liệu ấy là “những hiện tượng văn hóa đặc tồn” [9, tr.215] hay “các đơn vị đặc văn hóa” [9, tr.267]. Do đó, không chỉ các nhà Ngữ học quan tâm và hứng thú, mà các nhà Ngữ văn học cổ điển cũng rất chú ý đến hệ thống các đơn vị mang hàm lượng văn hóa độc đáo này. Những ngữ liệu ấy được xem như là một dạng tín hiệu thẩm mỹ đặc thù, nó được sử dụng trong các thi phẩm như một phương thức đặc trưng biểu đạt những tình cảm trữ tình của cá nhân, tạo nên một thế giới mở đặc thù theo thi pháp văn học trung đại Việt Nam. Nghệ thuật sử dụng hệ thống ngữ liệu này vừa đảm bảo tính quy phạm, chuẩn mực có tính ước lệ, phản ánh đặc trưng thể loại, vừa thể hiện chiều kích sâu rộng của văn hóa cổ điển, độ uyên thâm và khả năng khái quát đời sống của các tác giả văn học cổ Việt Nam.
Thời trung đại, do quan niệm sáng tác chịu ảnh hưởng trực tiếp của Nho giáo, văn học được sáng tác với mục đích chính trị và giáo huấn về cách ứng xử trong cuộc sống, nên ngôn ngữ văn chương thường mang âm hưởng trang trọng để tránh sự dung tục bình thường. Do đó, việc sử dụng những hình thức đặc thù của ngữ liệu văn hóa đã tạo nên một trường thẩm mỹ đặc trưng của các tác phẩm văn học cổ. Đó là hệ thống từ ngữ đã được dẫn dụng một cách khá công phu, linh hoạt và đa dạng trong các tác phẩm truyện Nôm tiêu biểu và đặc biệt là Truyện Kiều. Bàn về vấn đề này, Đoàn Ánh Loan trong Điển cố và nghệ thuật sử dụng điển cố đã khẳng định, hệ thống ngữ liệu (cụ thể ở đây là điển cố, thi văn liệu Hán học) trong ngôn ngữ truyện Nôm đã “được các tác giả truyện thơ xếp đặt ở câu bát nhiều hơn câu lục, tuy không quá chênh lệch, nhưng cũng cần được ghi nhận như một đặc điểm… nhưng bao giờ giữa chúng cũng có một sự kết nối chặt chẽ nhằm thể hiện cao nhất ý nghĩa của nó” [5, tr.56].
Những tiếp nhận và ảnh hưởng của văn hóa bác học, văn hóa Hán đã góp phần hình thành nên tính chất quan phương, uyên nhã – một đặc trưng thẩm mỹ của ngữ liệu bác học. Đặc trưng này làm nảy sinh những hình tượng, biểu tượng, cách diễn đạt cố định và mang tính truyền thống, phân định thứ bậc, tạo nên vẻ lộng lẫy và đậm tính nghi thức. Chẳng hạn, nhà thơ đã vận dụng một chuỗi các thuật ngữ, ngữ liệu có nguồn gốc từ binh gia, chính trị, có tính nguyên tắc cao để diễn tả các biến cố, sự kiện có tính nghiêm trang. Đoạn thơ “báo ân báo oán” của Thuý Kiều là một ví dụ tiêu biểu, tác giả đã sử dụng một hệ thống ngôn ngữ miêu tả đặc thù của Quân lễ [8, tr.224], một trong Ngũ lễ được quy định trong Thượng thư và Chu lễ, cụ thể là Cát lễ (quán, hôn), hung lễ (tang, tế), quân lễ, tân lễ (lễ tiếp khách) và gia lễ (lễ mừng). Đó là những từ ngữ thường dùng trong quân sự như hiệu duyệt, sưu thú, xuất sư:
“Quân trung gươm lớn giáo dài/Vệ trong thị lập, cơ ngoài song phi/Sẵn sàng tề chỉnh uy nghi/Bác đồng chật đất, tinh kỳ rợp sân/Trướng hùm mở giữa trung quân/Từ công sánh với phu nhân cùng ngồi/Tiên nghiêm, trống chửa dứt hồi/Điểm danh trước dẫn chực ngoài cửa viên”.
Vệ, cơ là những đơn vị quân chính được quy định trong quân ngũ thời phong kiến. Bác đồng (hay còn gọi là đồng bác, đồng lao, đây là những bộ gõ, được dùng để tạo âm thanh hùng tráng khi xuất binh), tinh kỳ là hệ thống cờ phướn được dùng trong đi sứ, nghi vệ thiên tử xuất hành hoặc nghi thức xuất binh của nguyên soái hoặc đại tướng. Trướng hùm (hay còn gọi là hổ trướng), cửa viên (viên môn) là địa điểm bản doanh của chủ soái, có bố trí hổ ỷ (ghế da hổ), trung quân là một trong ba cánh quân (tiền, trung, hậu hoặc tả, trung, hữu). Với những ngữ liệu đặc trưng ấy, tác giả vừa khắc hoạ thành công khung cảnh nghiêm cẩn, hào tráng, uy nghi của “phiên toà tình đời”, vừa đáp ứng được nhu cầu nghệ thuật chuẩn quy phạm.
Nguyễn Du miêu tả khung cảnh tài tử giai nhân tao ngộ qua sự xuất hiện của Kim Trọng trong buổi Thanh minh:
“Tuyết in sắc ngựa câu giòn/Cỏ pha mầu áo nhuộm non da trời”. “Hài văn lần bước dặm xanh/Một vùng như thể cây quỳnh cành dao”
Một bức tranh thiên nhiên và khung cảnh lễ hội được nhà thơ phác thảo qua những hình ảnh văn hoá rất đặc trưng của Trung Hoa, Việt Nam. Con người trong tiết Thanh minh đi sửa phần mộ và tìm đến những bóng hình quá khứ tạo nên một dạng thức của không gian hồi cố trong tâm cảm. Khung cảnh thiên nhiên diễm lệ ấy cũng chính là cái cớ để nhà thơ miêu tả một bức chân dung hoàn chỉnh về người nho sỹ tài hoa theo quan niệm Nho gia. Có lẽ, ở đoạn thơ này, Nguyễn Du đã chọn bức tranh thanh minh làm nền cho bức truyền thần của Kim Trọng như một sự tương tác nghịch chiều. Vẻ đẹp thiên nhiên trở nên thơ mộng hơn nhờ có hình ảnh con người và hình ảnh con người trở nên sinh động hơn nhờ có thiên nhiên vậy. Thiên nhiên là chuẩn mực, con người là điểm son. Tất cả những ngữ liệu miêu tả Kim Trọng đều gắn liền với màu xanh: hài văn lần bước dặm xanh, cỏ pha màu áo nhuộm non da trời, một vùng như thể cây quỳnh cành dao... Đông – Xuân – Thanh – Tuổi trẻ – Tình yêu là những từ mang tâm thức văn hoá, dễ liên tưởng qua lại, chính điều đó đã mang lại cho đoạn thơ và ngôn ngữ tự sự tác giả đậm chất trữ tình, nhẹ nhàng, có chiều sâu triết lý, văn hoá. Đồng thời, cách thức liên tưởng ấy cũng tạo nên chuỗi thanh âm phức điệu, những hoà điệu mang tính ngữ cảnh của thể loại truyện Nôm, cảm thức văn hoá cá nhân tác giả. Bản thân nó (tức thanh âm phức điệu) có thể tạo nên một tiềm năng ngữ nghĩa mà mỗi độc giả khi tiếp nhận sẽ tự tái tạo cho mình những mô thức tái hiện riêng biệt, tuỳ thuộc vào “tầm đón nhận” và chiều sâu văn hoá của mỗi cá nhân.
Như vây, hệ thống ngữ liệu văn hoá bác học chính là những tín hiệu thẩm mỹ đã được mã hoá, nó phản ánh một cách sâu sắc nhất bản lĩnh, trình độ, chiều sâu văn hoá của tác giả. Đồng thời, hệ thống tín hiệu này cũng thách thức, kêu gọi khả năng “giải mã văn hoá” của người tiếp nhận. Vì thế, khi khảo sát hệ thống ngôn ngữ tác phẩm văn học cổ điển Việt Nam, nhất là truyện thơ Nôm bác học, hệ thống ngữ liệu bác học này không chỉ là những yếu tố tạo nên sự hấp dẫn, mà còn là những rào cản nghệ thuật đối với người đọc. Sự trang bị cũng như những hiểu biết về văn hoá cổ điển truyền thống Đông phương luôn là những điều kiện cần thiết.
4. Kết luận
Hệ thống ngữ liệu văn hóa trong Truyện Kiều khá đa dạng và phong phú, chịu sự tác động của bối cảnh văn hóa, tư duy, tâm thức văn hóa, đặc trưng thẩm mỹ của văn hóa Trung Hoa và Việt Nam. Dưới áp lực của những tác động ấy, ngữ liệu đã trở thành những tín hiệu thẩm mỹ đặc thù, là những uyển ngữ, điển chương giàu sức khái quát và đậm tính triết học. Hệ thống ấy đã trở thành công cụ thẩm mỹ của văn nhân thi sĩ trung đại, nó không chỉ chuyển tải những nội dung thẩm mỹ, suy tưởng về nghệ thuật, về cuộc sống, mà còn thể hiện một cách sâu sắc về tầm văn hóa, độ thâm thuý và sở học của các tác gia văn học.
Tham khảo lựa ý nha