Hình tượng người nông dân nghĩa sĩ trong bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
0 bình luận về “Hình tượng người nông dân nghĩa sĩ trong bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”
Nguyễn Đình Chiểu- một ngôi sao sáng trên bầu trời văn học của dân tộc Việt Nam. Ông là một cây bút yêu nước với quan niệm đánh giặc bằng văn chương. Ông đã để lại cho nền văn học Việt Nam rất nhiều những tác phẩm mang giá trị lớn và có ý nghĩa với cả thời đại. Một trong số đó phải kể đến “Văn tế nghĩa sĩ Cần giuộc” với hình tượng về những người nông dân nghĩa sĩ anh hùng.
Từ nông dân nghèo khổ, những dân ấp, dân lân (những người bỏ quê đến khai khẩn đất mới để kiếm sống): “cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó”. Hoàn cảnh sống của họ cô đơn, thiếu người nương tựa, âm thầm lặng lẽ lao động mà vẫn nghèo khó suốt đời. Nghệ thuật tương phản: chưa quen – chỉ biết, vốn quen – chưa biết được Nguyễn Đình Chiểu nhấn mạnh việc quen (đồng ruộng) và chưa quen (chiến trận, quân sự) của những người nông dân Nam Bộ để tạo sự đối lập tầm vóc anh hùng trong đoạn sau. Những người nông dân nghĩa sĩ họ chỉ là những người nghèo khó và lương thiện, chính hoàn cảnh đã buộc họ phải đứng lên trở thành những người chiến sĩ và cuối cùng là “nghĩa sĩ”.
Khi thực dân Pháp xâm lược người nông dân cảm thấy: Ban đầu lo sợ trông chờ tin quan, căm thù muốn đứng lên chống lại. Vốn là những người nông dân nghèo khó không biết đến việc binh đao, họ lo sợ là chuyện bình thường. Họ nhận thức về tổ quốc: không dung tha những kẻ thù lừa dối, bịp bợm để rồi họ chiến đấu một cách tự nguyện: “nào đợi đòi ai bắt…” Diễn biến tâm trạng người nông dân, sự chuyển hóa phi thường trong thái độ, chính lòng yêu nước và niềm căm thù giặc, cộng với sự thờ ơ thiếu trách nhiệm của “quan” đã khiến họ tự giác,tự nguyện đứng lên chiến đấu .
Tinh thần chiến đấu của những người nông dân nghĩa sĩ là tinh thần tuyệt vời: Vốn không phải lính diễn binh, chỉ là dân ấp dân lân mà “mến nghĩa làm quân chiêu mộ”; với quân trang rất thô sơ: một manh áo vải, ngọn tầm vông, lưỡi dao phay, rơm con cúi đã đi vào lịch sử. Họ lập được những chiến công đáng tự hào: “đốt xong nhà dạy đạo”, “chém rớt đầu quan hai nọ”, “đạp rào”, “xô cửa”, “liều mình”, “đâm ngang”, “chém ngược”… Họ đã dựng lên bức tượng đài nghệ thuật sừng sững về người nông dân nghĩa sĩ đánh giặc cứu nước.
Sự hi sinh của những người nông dân được nói đến một cách hình ảnh với niềm tiếc thương chân thành: “xác phàm vội bỏ”, “da ngựa bọc thây”, đây là cách nói tránh sự hi sinh của những nghĩa sĩ. Chính họ, những người tự nguyện chiến đấu với những vũ khí thô sơ nay lại hi sinh anh dũng trên chiến trường để lại niềm tiếc thương nhưng tự hào cho người ở lại.
Nguyễn Đình Chiểu đã rất thành công khi xây dựng được bức tranh về hình tượng của những người nông dân nghĩa sĩ. Hình tượng những người nông dân nghĩa sĩ với sự chiến đấu và hi sinh anh dũng xứng đáng đi vào sử sách. Cái chết của họ là cái chết bất tử. Họ đã trở thành biểu tượng cho sự dũng cảm hi sinh vì độc lập của quê hương, của Tổ quốc.
Nguyễn Đình Chiểu- một ngôi sao sáng trên bầu trời văn học của dân tộc Việt Nam. Ông là một cây bút yêu nước với quan niệm đánh giặc bằng văn chương. Ông đã để lại cho nền văn học Việt Nam rất nhiều những tác phẩm mang giá trị lớn và có ý nghĩa với cả thời đại. Một trong số đó phải kể đến “Văn tế nghĩa sĩ Cần giuộc” với hình tượng về những người nông dân nghĩa sĩ anh hùng.
Từ nông dân nghèo khổ, những dân ấp, dân lân (những người bỏ quê đến khai khẩn đất mới để kiếm sống): “cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó”. Hoàn cảnh sống của họ cô đơn, thiếu người nương tựa, âm thầm lặng lẽ lao động mà vẫn nghèo khó suốt đời. Nghệ thuật tương phản: chưa quen – chỉ biết, vốn quen – chưa biết được Nguyễn Đình Chiểu nhấn mạnh việc quen (đồng ruộng) và chưa quen (chiến trận, quân sự) của những người nông dân Nam Bộ để tạo sự đối lập tầm vóc anh hùng trong đoạn sau. Những người nông dân nghĩa sĩ họ chỉ là những người nghèo khó và lương thiện, chính hoàn cảnh đã buộc họ phải đứng lên trở thành những người chiến sĩ và cuối cùng là “nghĩa sĩ”.
Khi thực dân Pháp xâm lược người nông dân cảm thấy: Ban đầu lo sợ trông chờ tin quan, căm thù muốn đứng lên chống lại. Vốn là những người nông dân nghèo khó không biết đến việc binh đao, họ lo sợ là chuyện bình thường. Họ nhận thức về tổ quốc: không dung tha những kẻ thù lừa dối, bịp bợm để rồi họ chiến đấu một cách tự nguyện: “nào đợi đòi ai bắt…” Diễn biến tâm trạng người nông dân, sự chuyển hóa phi thường trong thái độ, chính lòng yêu nước và niềm căm thù giặc, cộng với sự thờ ơ thiếu trách nhiệm của “quan” đã khiến họ tự giác,tự nguyện đứng lên chiến đấu .
Tinh thần chiến đấu của những người nông dân nghĩa sĩ là tinh thần tuyệt vời: Vốn không phải lính diễn binh, chỉ là dân ấp dân lân mà “mến nghĩa làm quân chiêu mộ”; với quân trang rất thô sơ: một manh áo vải, ngọn tầm vông, lưỡi dao phay, rơm con cúi đã đi vào lịch sử. Họ lập được những chiến công đáng tự hào: “đốt xong nhà dạy đạo”, “chém rớt đầu quan hai nọ”, “đạp rào”, “xô cửa”, “liều mình”, “đâm ngang”, “chém ngược”… Họ đã dựng lên bức tượng đài nghệ thuật sừng sững về người nông dân nghĩa sĩ đánh giặc cứu nước.
Sự hi sinh của những người nông dân được nói đến một cách hình ảnh với niềm tiếc thương chân thành: “xác phàm vội bỏ”, “da ngựa bọc thây”, đây là cách nói tránh sự hi sinh của những nghĩa sĩ. Chính họ, những người tự nguyện chiến đấu với những vũ khí thô sơ nay lại hi sinh anh dũng trên chiến trường để lại niềm tiếc thương nhưng tự hào cho người ở lại.
Nguyễn Đình Chiểu đã rất thành công khi xây dựng được bức tranh về hình tượng của những người nông dân nghĩa sĩ. Hình tượng những người nông dân nghĩa sĩ với sự chiến đấu và hi sinh anh dũng xứng đáng đi vào sử sách. Cái chết của họ là cái chết bất tử. Họ đã trở thành biểu tượng cho sự dũng cảm hi sinh vì độc lập của quê hương, của Tổ quốc.