KỂ LẠI TRUYỆN THÁNH GIÓNG THEO NHÂN VẬT TÙY THÍCH

By Reagan

KỂ LẠI TRUYỆN THÁNH GIÓNG THEO NHÂN VẬT TÙY THÍCH

0 bình luận về “KỂ LẠI TRUYỆN THÁNH GIÓNG THEO NHÂN VẬT TÙY THÍCH”

  1. kể lại theo lơi văn của thánh gióng

                bài làm

    chúng tôi chung sống rất hạnh phúc, nhưng buồn thay, chúng tôi mãi không có một mụn con. Ngày ngày chúng tôi luôn ao ước có một đứa con cho vui cửa vui nhà. Một hôm, tôi ra đồng làm việc, liền bắt gặp một dấu chân rất to, nó thật khác lạ với bàn chân của người thường. Tôi tò mò lắm, nhìn lại chân mình, rồi quyết định áp chân lên thử. Sau việc đó, tôi cũng không nghĩ ngợi gì nữa, một thời gian sau, tôi phát hiện mình mang thai, tôi và ông nhà hạnh phúc lắm, chồng tôi chăm tôi rất tốt. Nhưng kỳ lạ thay, người phụ nữ nào cũng chín tháng mười ngày sinh con, còn tôi thì sau mười hai tháng mới hạ sinh được đứa bé. Đứa bé rất khôi ngô, tuấn tú, trông thật đáng yêu làm sao! Hai vợ chồng tôi cùng đặt tên cho con là Gióng. Từ ngày có Gióng, chúng tôi chăm chỉ làm việc hơn, nhưng chúng tôi lại phải ngỡ ngàng trước những điều kỳ lạ nữa. Con rất khác với những đứa trẻ trong làng, lên ba tuổi rồi, vẫn không biết nói, biết cười, hay chạy nhảy, lăn bò gì cả, chúng tôi cứ đặt đâu thì con nằm đấy. Chúng tôi cũng có chút buồn phiền, nhưng dù thế nào, tôi vẫn luôn yêu thương con hết mực.

    Rồi năm ấy, đất nước vào thế loạn nguy khi có kẻ nhòm ngó xâm lược, nhà vua cho sứ giả lan truyền khắp cả nước mong tìm được nhân tài để đánh giặc. Khi tiếng sứ giả đến gần nhà, tôi đã rất bất ngờ trước lời nói của đứa con trai mình bởi ba năm nó không nói một tiếng, vậy mà giờ nó bỗng cất tiếng:

    · Mẹ ơi, mẹ gọi giúp con sứ giả vào đây, con muốn đi đánh giặc!

    Tôi do dự lắm, bởi nó chỉ là một đứa bé, làm sao mà cầm quân đánh giặc được:

    · Gióng, con nói gì vậy? Con còn bé, cẩn thận với lời nói.

    Nhưng Gióng đâu có chịu nghe, ánh mắt con nhìn tôi đầy kiên định, tôi đã quyết định mời sứ giả vào cho con. Thằng bé đưa tôi hết bất ngờ này đến bất ngờ khác, nó yêu cầu sứ giả mang cho nó vũ khí để đi đánh giặc:

    · Ông kêu nhà vua mang đến cho ta một con ngựa sắt, một chiếc áo giáp sắt, và cả một chiếc roi sắt để ta đi đánh giặc!

    Giọng nói của Gióng rất quả quyết làm xua tan đi bao nghi ngờ trong lòng sứ giả, khiến chúng tôi vừa kinh ngạc lại vừa vui mừng khôn xiết. Con quay sang tôi, muốn tôi nấu cho một nồi cơm thật to. Tôi nghe theo lời, vội vã đi nấu cơm cho con ăn. Nhưng nấu đến đâu, Gióng ăn hết đến đấy và cùng với đó, con lớn nhanh như thổi, bỗng nhiên trở thành một tráng sĩ cao to vạm vỡ. Tôi và chồng cố gắng lấy hết số gạo ở nhà có để nấu cho con, nhưng khốn nỗi vẫn không đủ, hai vợ chồng phải nhờ sự trợ giúp của dân làng. Dân làng thấy điều thần kỳ vậy, họ tin rằng Gióng sẽ mang lại yên bình cho đất nước, cho dân làng, nên đã cùng nhau quyên góp gạo cho Gióng để Gióng đi đánh giặc.

    Rồi đến ngày hẹn, sứ giả mang những đồ mà Gióng đã yêu cầu. Nhận thấy tình hình cấp bách của đất nước khi giặc đã tới chân núi Trâu, Gióng nhanh chóng mặc quần áo giáp, leo lên lưng ngựa, quất vào con ngựa, ngựa hí lên mà phi ra lửa. Trước khi ra trận, con không quên lạy tạ cha mẹ, từ biệt dân làng, ánh mắt con mang theo sự quả quyết sẽ mang lại bình an cho dân làng. Nhìn thấy bóng dáng đứa con thân yêu khuất dần sau rặng tre làng, tôi vừa xót xa vừa tự hào về con, nước mắt cứ không ngừng tuôn rơi. Những ngày xông pha chiến trận, Gióng đánh giặc chống trả quyết liệt, Gióng đi tới đâu, giặc lo sợ, thất bại ngay tại đó. Rồi không may, chiếc roi sắt của con bị gãy, con đã nhanh trí một tay đã nhổ khóm tre bên cạnh mà đánh giặc. Quân giặc thua tan tác chào đón Gióng trở về, nhưng sau trận chiến, con đã cởi bỏ áo giáp sắt rồi phi ngựa lên trời. Tôi cũng chợt nhận ra, Gióng chính là con của Ngọc Hoàng, vì thương xót và muốn giúp dân làng diệt trừ giặc ngoại xâm nên đã phái con xuống. 

    ~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~
    TỰ LÀM NÊN MOD ĐỪNG XOÁ

    Trả lời
  2.   Có lẽ bất kì người dân Việt Nam nào cũng nhớ tới tôi: Thánh Gióng – một trong những tứ bất tử của dân tộc. Cả cuộc đời của tôi là một câu chuyện huyền thoại hay chính bước đi cuả lịch sử đã huyền thoại hoá tất cả!

      Bố mẹ tôi cũng là những người dân Việt bình thường như biết bao nhiêu người khác. Thậm chí, họ còn không được hưởng niềm hạnh phúc bình thường bởi họ đã về già mà vẫn không có nổi một mụn con. Ngày nào bố mẹ tôi cũng cầu trời khấn Phật cho họ một đứa trẻ để vui cửa vui nhà, động viên họ lúc tuổi đã xế chiều. Hình như trời Phật đã thấu hiểu mơ ước của hai vợ chồng. Một hôm, mẹ tôi đi làm đồng về muộn, bà phát hiện ra một dấu chân lạ. Nó có độ lớn khác thường. Tò mò, bà đặt chân ướm thử. Không ngờ, về nhà, bà lại thụ thai. Nhưng thật kì lạ, cái thai đã qua chín tháng mười ngày mà vẫn không chịu ra. Ở trong bụng mẹ, tôi thấu hiểu hơn ai hết nỗi lo lắng của cha mẹ tôi. Đúng mười hai tháng sau tôi mơi ra đời. Ngày tôi chào đời, những giọt nước mắt hạnh phúc đã lăn dài trẽn gương mặt nhăn nheo của cha mẹ. Theo thời gian tôi cứ lớn lên. Nhưng ki lạ thay đã ba năm trôi qua mà tôi vẫn không biết nói biết cười, không biết bò chứ chẳng nói đến biết đi như những đứa trẻ bình thường khác. Suốt ngày tôi chỉ trơ trơ nằm ở giường. Niềm vui lại tắt ngấm trong căn nhà nghèo khổ của cha mẹ tôi. Hai ông bà nhìn nhau thở dài không nói. Nhưng họ không nỡ vứt bỏ đứa con mà họ ao ước cả cuộc đời. Hai ông bà vẫn nhịn ăn, nhịn mặc lấy tiền nuôi tôi. Hàng xóm láng giềng nhìn tôi không khỏi ái ngại cho ông bà già tuổi đã gần đất xa trời. Nhưng họ vẫn hết lòng động viên, an ủi.

      Năm ấy, giặc Ân sang xâm lược bờ cõi nước ta. Thế giặc rất mạnh, đất nước đang trong thế ngàn cân treo sợi tóc. Khắp mọi ngõ ngách trong làng, ai ai cũng lo sợ. Nhà vua không còn cách nào khác là cho sứ giả đi khắp nơi tìm người hiền tài giúp nước. Qua biết bao vùng đất làng quê mà người hiền tài vẫn vắng bóng. Sứ giả đù rất buồn nhưng vẫn khộng nản bước. Rồi ngài cũng dừng lại ở làng quê hẻo lánh mà nhỏ bé của làng chúng tôi. Vừa nghe tiếng loa thông báo ngoài đình, cậu bé mà bao năm nay không biết nói biết cười bỗng chốc cất tiếng nói làm cha mẹ tôi hoảng hốt bất ngờ và lo sợ. Tôi gọi mẹ đi tìm sứ giả vào cho tôi. Mẹ tôi bước đi mà trong lòng không hết bối rối. Bỗng nhiên lúc đó, tôi cảm nhận được sự thay đổi lớn lao trong mình. Tôi bỗng chốc trở thành một con người khác hẳn. Tôi thấy được sự trưởng thành ghê gớm trong mình. Tiếng nói đầu tiên không phải là tiếng nói bình thường như bao đứa trẻ khác mà tiếng nói của lòng yêu nước. Khi sứ giả vào, ông không tin nổi mắt mình khi một đứa trẻ lên ba vẫn còn ngồi trên giường xin đi đánh giặc. Tôi nói với sứ giả: “Ông về tâu với nhà vua đúc cho ta một con ngựa sắt, một áo giáp sắt, một roi sắt ta sẽ đánh tan lũ giặc này”. Khi nghe câu nói này của tôi, sứ giả như tìm được một niềm tin nơi tôi. Ông trở về kinh thành ngay. Những ngày sau đó, cả làng tôi ai cũng bận rộn. Từ hôm sứ giả trở về tôi ăn khoẻ khác thường. Ba nong cơm, chín nong cà. Cha mẹ không đủ thóc gạo nuôi tôi. Mọi nhà không ai bảo ai đều mang thóc gạo, ngô khoai đến cho cha mẹ tôi. Ai cũng mong tôi ăn thật nhiều để lấy sức giết giặc. Những ngày đó ở kinh đô, trong các xưởng rèn, những người thợ ngày đêm rèn binh khí theo lời dặn của tôi. Giặc tiến tới đâu, cả dân tộc tôi ngày đêm hừng hực tinh thần giết giặc đến đó. Rồi cũng đến ngày sứ giả mang binh khí đến. Tôi đứng dậy, vươn vai và trong phút chốc trở thành một tráng sĩ khôi ngô, tuấn tú, dũng mãnh vô song. Mọi người không khỏi ngạc nhiên và vui mừng. Tôi mặc áo sắt, đội mũ sắt, tay cầm roi sắt nhảy lên mình con ngựa bằng sắt. Chú ngựa vô hồn trong nháy mắt đã tung vó, hí vang. Tôi tạm biệt cha mẹ, tạm biệt dân làng dẫn quân đi giết giặc. Đoàn quân hùng hậu tiến ra trận trong hào khí ngút trời. Chúng tôi đi tới đậu, giặc chết tới đó. Tôi phi ngựa, vung roi quật lũ giặc. Ngựa hí vang phun ra lửa thiêu đốt quân thù. Giặc chết như ngả rạ. Bỗng roi sắt gãy, tôi nhổ những cụm tre đằng ngà bên đường tiếp tục đánh giặc. Quân giặc hoảng sợ, tháo chạy. Thừa thắng, quân ta xông lên, đuổi lũ giặc ra khỏi bờ cõi. Đất nước trở lại thanh bình. Tôi không kịp trở về nhà tạm biệt mẹ. Đó là nỗi buồn mà có lẽ không bao giờ nguôi ngoai trong lòng tôi. Tôi phi ngựa lên đỉnh núi cao của làng rồi cởi bỏ lại áo giáp sắt, mũ sắt, cúi lạy quê hương rồi một người một ngựa từ từ bay về trời.

    Trả lời

Viết một bình luận