khái quát lại các phong cách của xuân diệu, nêu giá trị đóng góp của ông cho nền văn học
0 bình luận về “khái quát lại các phong cách của xuân diệu, nêu giá trị đóng góp của ông cho nền văn học”
Xuân Diệu là nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới”. Đó là câu nói của Hoài Thanh khi nói về Xuân Diệu – một nhà thơ lớn, một nghệ sĩ lớn, một nhà văn hóa lớn, một cây bút có sức sáng tạo mãnh liệt, dồi dào, bền bỉ, có đóng góp to lớn trên nhiều lĩnh vực đối với nền văn học.
Xuân Diệu (1916 – 1985) còn có bút danh là Trảo Nha, tên khai sinh là Ngô Xuân Diệu, quê nội ở Hà Tĩnh, quê ngoại ở Bình Định. Ông đã thừa hưởng ở người cha – một ông đồ xứ Nghệ đức tính cần cù, kiên nhẫn trong lao động sáng tạo còn thiên nhiên thơ mộng nơi xứ biển quê mẹ thì góp phần hình thành và bồi đắp nên hồn thơ của ông. Xuân Diệu học hết bậc Thành chung ở quê mẹ. Sau khi tốt nghiệp tú tài, ông đi dạy học và làm viên chức ở Mĩ Tho, sau đó ra Hà Nội sống bằng nghề viết văn, là một trong những cây bút của “Tự lực văn đoàn”. Ông để lại một khối lượng tác phẩm khá đồ sộ với một đam mê sáng tạo như muốn chạy đua với thời gian: “Ngót năm mươi tác phẩm thơ, văn, phê bình, dịch thuật. Trong sổ lúc nào cũng có thơ chưa in, trong lòng lúc nào cũng có điều định viết và bao giờ cũng có tác phẩm xếp hàng ở nhà xuất bản” (Vũ Quần Phương). Xuân Diệu là sự kết hợp giữa truyền thống – hiện đại, phương Đông – phương Tây trong đó yếu tố phương Tây tác động mạnh mẽ hơn. Ông là nhà thơ của tình yêu, của mùa xuân và tuổi trẻ. Trong ông luôn tồn tại hai trạng thái cảm xúc: một mặt thì nồng nàn, sôi nổi, yêu đời, mặt khác thì luôn băn khoăn, u hoài lo lắng. Xuân Diệu đã đánh dấu vị trí của mình bằng một sự nghiệp, một phong cách thơ đặc biệt. Phong cách thơ của ông được gói gọn qua những hình ảnh “giục giã”, “vội vàng”, “nhìn thiên nhiên bằng cặp mắt xanh non biếc rờn”. Xuân Diệu là nhà thơ của niềm khát khao giao cảm với đời (Nguyễn Đăng Mạnh). Đặc biệt, ông còn là một hồn thơ yêu đời, yêu cuộc sống, muốn tận hưởng trọn vẹn từng giây phút của cuộc đời nơi trần thế: “Ta chỉ là cây kim bé nhỏ mà vạn vật là muôn đá nam châm”. Niềm khát khao ấy đã trở thành một tuyên ngôn sống của Xuân Diệu:
“Sống toàn tâm, toàn chí, toàn hồn! Sống toàn thân và thức nhọn giác quan”
Dường như nhà thơ muốn căng mở tất cả các giác quan để tận hưởng vẻ đẹp trần thế này. Niềm khát khao giao cảm với đời của Xuân Diệu được thể hiện ngay qua những dòng thơ đầu tiên trong “Vội vàng”:
“Tôi muốn tắt nắng đi Cho màu đừng nhạt mất Tôi muốn buộc gió lại Cho hương đừng bay đi”
Đây là một ước muốn viển vông, một khát vọng phi lí tưởng chừng ngông cuồng vì con người không thể “tắt nắng”, không thể “buộc gió”. Nhà thơ muốn tranh quyền của tạo hóa, đoạt quyền của thiên nhiên để níu giữ cho sắc màu không tàn phai, muốn buộc gió để chắt chiu hương vị cho cuộc đời, để níu giữ cái đẹp tươi thắm nhất cho cuộc sống. Bên cạnh đó, ông còn quan niệm sáng tác thơ là để tâm hồn mình tìm đến với những tâm hồn bè bạn, những tâm hồn đồng điệu, tri âm, tri kỉ ở mọi khoảng cách về thời gian, không gian. Và trong quan niệm ấy, nổi bật lên là cái “tôi” sâu sắc, đầy riêng biệt của nhà thơ. Xuân Diệu cùng thế hệ với các nhà thơ Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Huy Cận,.. những nhà thơ đã làm nên một thời đại của thi ca thế nhưng ông đã khẳng định rõ được cái “tôi” của mình trong dàn đồng ca của thơ mới:
“Ta là một, là riêng, là thứ nhất Không có chi bè bạn nổi cùng ta”
Xuân Diệu có một vị trí đặc biệt mà Hoài Thanh gọi đó là “ Một nhà thơ đắm say với thiên nhiên vạn vật, với con người và vũ trụ”. Xuân Diệu cũng như những nhà thơ mới khác đã thoát khỏi hệ thống thi pháp Trung Đại, ông nhìn cuộc đời bằng cặp mắt “xanh non biếc rờn” của chính mình để phát hiện những vẻ đẹp rực rỡ nơi trần thế, đặc biệt là vẻ đẹp của mùa xuân, của tuổi trẻ. Cũng bởi vậy thiên nhiên trong thơ ông, đặc biệt là trong “Vội vàng” hiện lên như một bữa tiệc xuân đang mời gọi con người đến thưởng thức.
Xuân Diệu là nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới”. Đó là câu nói của Hoài Thanh khi nói về Xuân Diệu – một nhà thơ lớn, một nghệ sĩ lớn, một nhà văn hóa lớn, một cây bút có sức sáng tạo mãnh liệt, dồi dào, bền bỉ, có đóng góp to lớn trên nhiều lĩnh vực đối với nền văn học.
Xuân Diệu (1916 – 1985) còn có bút danh là Trảo Nha, tên khai sinh là Ngô Xuân Diệu, quê nội ở Hà Tĩnh, quê ngoại ở Bình Định. Ông đã thừa hưởng ở người cha – một ông đồ xứ Nghệ đức tính cần cù, kiên nhẫn trong lao động sáng tạo còn thiên nhiên thơ mộng nơi xứ biển quê mẹ thì góp phần hình thành và bồi đắp nên hồn thơ của ông. Xuân Diệu học hết bậc Thành chung ở quê mẹ. Sau khi tốt nghiệp tú tài, ông đi dạy học và làm viên chức ở Mĩ Tho, sau đó ra Hà Nội sống bằng nghề viết văn, là một trong những cây bút của “Tự lực văn đoàn”. Ông để lại một khối lượng tác phẩm khá đồ sộ với một đam mê sáng tạo như muốn chạy đua với thời gian: “Ngót năm mươi tác phẩm thơ, văn, phê bình, dịch thuật. Trong sổ lúc nào cũng có thơ chưa in, trong lòng lúc nào cũng có điều định viết và bao giờ cũng có tác phẩm xếp hàng ở nhà xuất bản” (Vũ Quần Phương). Xuân Diệu là sự kết hợp giữa truyền thống – hiện đại, phương Đông – phương Tây trong đó yếu tố phương Tây tác động mạnh mẽ hơn. Ông là nhà thơ của tình yêu, của mùa xuân và tuổi trẻ. Trong ông luôn tồn tại hai trạng thái cảm xúc: một mặt thì nồng nàn, sôi nổi, yêu đời, mặt khác thì luôn băn khoăn, u hoài lo lắng. Xuân Diệu đã đánh dấu vị trí của mình bằng một sự nghiệp, một phong cách thơ đặc biệt. Phong cách thơ của ông được gói gọn qua những hình ảnh “giục giã”, “vội vàng”, “nhìn thiên nhiên bằng cặp mắt xanh non biếc rờn”. Xuân Diệu là nhà thơ của niềm khát khao giao cảm với đời (Nguyễn Đăng Mạnh). Đặc biệt, ông còn là một hồn thơ yêu đời, yêu cuộc sống, muốn tận hưởng trọn vẹn từng giây phút của cuộc đời nơi trần thế: “Ta chỉ là cây kim bé nhỏ mà vạn vật là muôn đá nam châm”. Niềm khát khao ấy đã trở thành một tuyên ngôn sống của Xuân Diệu:
“Sống toàn tâm, toàn chí, toàn hồn!
Sống toàn thân và thức nhọn giác quan”
Dường như nhà thơ muốn căng mở tất cả các giác quan để tận hưởng vẻ đẹp trần thế này. Niềm khát khao giao cảm với đời của Xuân Diệu được thể hiện ngay qua những dòng thơ đầu tiên trong “Vội vàng”:
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”
Đây là một ước muốn viển vông, một khát vọng phi lí tưởng chừng ngông cuồng vì con người không thể “tắt nắng”, không thể “buộc gió”. Nhà thơ muốn tranh quyền của tạo hóa, đoạt quyền của thiên nhiên để níu giữ cho sắc màu không tàn phai, muốn buộc gió để chắt chiu hương vị cho cuộc đời, để níu giữ cái đẹp tươi thắm nhất cho cuộc sống. Bên cạnh đó, ông còn quan niệm sáng tác thơ là để tâm hồn mình tìm đến với những tâm hồn bè bạn, những tâm hồn đồng điệu, tri âm, tri kỉ ở mọi khoảng cách về thời gian, không gian. Và trong quan niệm ấy, nổi bật lên là cái “tôi” sâu sắc, đầy riêng biệt của nhà thơ. Xuân Diệu cùng thế hệ với các nhà thơ Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Huy Cận,.. những nhà thơ đã làm nên một thời đại của thi ca thế nhưng ông đã khẳng định rõ được cái “tôi” của mình trong dàn đồng ca của thơ mới:
“Ta là một, là riêng, là thứ nhất
Không có chi bè bạn nổi cùng ta”
Xuân Diệu có một vị trí đặc biệt mà Hoài Thanh gọi đó là “ Một nhà thơ đắm say với thiên nhiên vạn vật, với con người và vũ trụ”. Xuân Diệu cũng như những nhà thơ mới khác đã thoát khỏi hệ thống thi pháp Trung Đại, ông nhìn cuộc đời bằng cặp mắt “xanh non biếc rờn” của chính mình để phát hiện những vẻ đẹp rực rỡ nơi trần thế, đặc biệt là vẻ đẹp của mùa xuân, của tuổi trẻ. Cũng bởi vậy thiên nhiên trong thơ ông, đặc biệt là trong “Vội vàng” hiện lên như một bữa tiệc xuân đang mời gọi con người đến thưởng thức.
cho mik xin hay nhất ạ