Khổ 3+4: Hình ảnh ông đồ bị lãng quên
-> Phân tích nghệ thuật , từ ngữ , hình ảnh , chốt ra nội dung của từng khổ
0 bình luận về “Khổ 3+4: Hình ảnh ông đồ bị lãng quên
-> Phân tích nghệ thuật , từ ngữ , hình ảnh , chốt ra nội dung của từng khổ”
Khổ 3+4: Hình ảnh ông đồ bị lãng quên
dẫu rằng sự hiện hữu của ông đồ góp thêm nét đẹp truyền thống ấm cúng, trang trọng cho ngày tết và nét chữ ” như phượng múa rồng bay” kia cố níu kéo lấy chút thể diện cuối cùng, được mọi người thán phục, ngưỡng mộ nhương tránh sao cho khỏi cảm giác bẽ bàng, sượng sùng? nhưng cái danh sự còn sót lại nhỏ nhoi ấy cũng đâu tồn tại mãi, nó vẫn bị thời gian khắc nghiệt vùi lấp không thương tiếc. hình bóng lẻ loi, cô độc của con người như bất lực trước hiện thực phũ phàng :
” nhưng mỗi năm mỗi vắng
người thuê viết nay đâu?
giấy đỏ buồn không thắm
mực đọng trong nghiên sầu.”
chữ ” nhưng ” đứng đầu câu như cánh cửa khép- mở 2 thời kỳ, qua rồi cái thời đắc ý của ông đồ – mọi người hân hoan đón đợi, giờ đây ông vẫn ngồi xuống phố nhưng đã bị mọi người thờ ơ, quên lãng. khổ thơ chính là 1 sự hụt hẫng trong ánh mắt kiếm tìm ” người thuê viết nay đâu?”, là 1 thời gian khắc khoải đến đau lòng ”mỗi năm mỗi vắng”. sự tàn lụi của 1 nền văn hoá nho học là 1 điều tất yếu, cái mới sẽ thay thế cái cũ, ánh hào quang nào trước sau cũng dần vụt tắt, bị lãng quên , thờ ơ trong dòng đời vất vả với những kế mưu sinh, nhưng hiện thực phũ phàng cũng khiến cho lớp hậu sinh như vũ đình liên không khỏi ái ngại, thương tiếc khi trước mặt mình là 1 khoảng hoang vắng, đượm buồn. trong sắc phai bẽ bàng của giấy, sự kết đọng lạnh lòng của mực tự thân nó bỗng dâng lên 1 nỗi buồn tủi. là ngoại canhr nhưng cũng là tâm cảnh, 1 nỗi buồn thấm thía, khiến cho những vật vô tri vô giác cúng nhuốm sầu như chủ của chúng ” 1 mình mình biết , 1 mình mình buồn” , ”trĩu nặng ưu tư, xót xa trước thời thế đổi thay ”. và cái đáng buồn hơn, đến khổ thơ thứ 4 thì còn lại là cái hình ảnh của ông đồ lặng lẽ, cô đơn giữa quang cảnh cạnh lẽo :
ông đồ vẫn ngồi đấy qua đường không ai hay lá vàng rơi trên giấy ngoài trời mưa bụi bay
bằng hi vọng mỏng manh còn lại, chút gánh gỏi vì miếng cơm manh áo, ông đồ vẫn khiên nhẫn ngồi đợi. nhưng đáp lại sự chờ đợi vô vọng đó là những con người tấp nập qua lại hững hờ, quên đi sự hiện diện của ông. giữa cái ồn ào, náo động là bóng dáng cô độc ngậm ngùi thương cảm. giữa ko gian đông người ấy, ông đồ vẫn ngồi, bóng dáng trầm tư. từng đợt lá vàng rơi xuống đường, rơi tren giấy cùng ánh mắt thẫn thờ như ngơ ngác trông ra màn mưa bụi mịt mờ thật ám ảnh, khiến cho còn người dâng lên bao nỗi sót sa, đánh động vào lươg tri của mỗi người, không gian hoang vắng đến thê thương. ”lá vàng rơi trên giấy” cũng gợi ra cái không gian thấm lẫm nỗi buồn ” là vàng rơi” cũng như số phận hẩm hui của ông đồ đã đến lời kết thúc
Hình ảnh ông đồ trong những năm ế khách : – Thời gian : vẫn lặp lại vào dịp Tết đến xuân về – Ông đồ vẫn xuất hiện với công việc viết chữ thuê – Nhưng khách hàng thì vắng tanh => Ông đồ trở nên bơ vơ , lạc lõng giữa dòng đời , giữa phố phường tấp nập => Câu hỏi tu từ : càng bộc lộ rõ tâm trạng bơ vơ , lạc longc của ông – ” Giấy đỏ buồn….trong nghiên sầu ” : nhân hóa , nhấn mạnh nỗi sầu tủi của bút nghiên , cũng chính là nỗi sầu tủi của ông đồ . Hình như , chúng cảm nhận được nỗi buồn của ông .
*Khổ 4 :
– Một lần nữa cho ta cảm nhận nỗi cô đơn , lạc lõng của ông , cảnh vật cũng trở nên buồn bã , tàn tạ – Bằng nghệ thuật tả cảnh ngụ tình ( mượn cảnh để nói về tâm trạng con người ) , cho ta cảm nhận nỗi sầu tủi của 1 kẻ thất thế , bị người đời lãng quên . Đây cũng là 1 thực tế tàn nhẫn dợi sự tàn tạ của văn học chữ nôm , thay thế bằng nền văn học hiện đại , chữ quốc ngữ
Cái này là mk tự soạn nha , k có copy trên mạng . Xin 5* và ctlhn ‘-‘)
Khổ 3+4: Hình ảnh ông đồ bị lãng quên
dẫu rằng sự hiện hữu của ông đồ góp thêm nét đẹp truyền thống ấm cúng, trang trọng cho ngày tết và nét chữ ” như phượng múa rồng bay” kia cố níu kéo lấy chút thể diện cuối cùng, được mọi người thán phục, ngưỡng mộ nhương tránh sao cho khỏi cảm giác bẽ bàng, sượng sùng? nhưng cái danh sự còn sót lại nhỏ nhoi ấy cũng đâu tồn tại mãi, nó vẫn bị thời gian khắc nghiệt vùi lấp không thương tiếc. hình bóng lẻ loi, cô độc của con người như bất lực trước hiện thực phũ phàng :
” nhưng mỗi năm mỗi vắng
người thuê viết nay đâu?
giấy đỏ buồn không thắm
mực đọng trong nghiên sầu.”
chữ ” nhưng ” đứng đầu câu như cánh cửa khép- mở 2 thời kỳ, qua rồi cái thời đắc ý của ông đồ – mọi người hân hoan đón đợi, giờ đây ông vẫn ngồi xuống phố nhưng đã bị mọi người thờ ơ, quên lãng. khổ thơ chính là 1 sự hụt hẫng trong ánh mắt kiếm tìm ” người thuê viết nay đâu?”, là 1 thời gian khắc khoải đến đau lòng ”mỗi năm mỗi vắng”. sự tàn lụi của 1 nền văn hoá nho học là 1 điều tất yếu, cái mới sẽ thay thế cái cũ, ánh hào quang nào trước sau cũng dần vụt tắt, bị lãng quên , thờ ơ trong dòng đời vất vả với những kế mưu sinh, nhưng hiện thực phũ phàng cũng khiến cho lớp hậu sinh như vũ đình liên không khỏi ái ngại, thương tiếc khi trước mặt mình là 1 khoảng hoang vắng, đượm buồn. trong sắc phai bẽ bàng của giấy, sự kết đọng lạnh lòng của mực tự thân nó bỗng dâng lên 1 nỗi buồn tủi. là ngoại canhr nhưng cũng là tâm cảnh, 1 nỗi buồn thấm thía, khiến cho những vật vô tri vô giác cúng nhuốm sầu như chủ của chúng ” 1 mình mình biết , 1 mình mình buồn” , ”trĩu nặng ưu tư, xót xa trước thời thế đổi thay ”. và cái đáng buồn hơn, đến khổ thơ thứ 4 thì còn lại là cái hình ảnh của ông đồ lặng lẽ, cô đơn giữa quang cảnh cạnh lẽo :
ông đồ vẫn ngồi đấy
qua đường không ai hay
lá vàng rơi trên giấy
ngoài trời mưa bụi bay
bằng hi vọng mỏng manh còn lại, chút gánh gỏi vì miếng cơm manh áo, ông đồ vẫn khiên nhẫn ngồi đợi. nhưng đáp lại sự chờ đợi vô vọng đó là những con người tấp nập qua lại hững hờ, quên đi sự hiện diện của ông. giữa cái ồn ào, náo động là bóng dáng cô độc ngậm ngùi thương cảm. giữa ko gian đông người ấy, ông đồ vẫn ngồi, bóng dáng trầm tư. từng đợt lá vàng rơi xuống đường, rơi tren giấy cùng ánh mắt thẫn thờ như ngơ ngác trông ra màn mưa bụi mịt mờ thật ám ảnh, khiến cho còn người dâng lên bao nỗi sót sa, đánh động vào lươg tri của mỗi người, không gian hoang vắng đến thê thương. ”lá vàng rơi trên giấy” cũng gợi ra cái không gian thấm lẫm nỗi buồn ” là vàng rơi” cũng như số phận hẩm hui của ông đồ đã đến lời kết thúc
hok tốt
bài này cô vt mẫu, gõ gãy tay lun òi
nếu đc mk xin hay nhất ạ
*Khổ 3 :
Hình ảnh ông đồ trong những năm ế khách :
– Thời gian : vẫn lặp lại vào dịp Tết đến xuân về
– Ông đồ vẫn xuất hiện với công việc viết chữ thuê
– Nhưng khách hàng thì vắng tanh
=> Ông đồ trở nên bơ vơ , lạc lõng giữa dòng đời , giữa phố phường tấp nập
=> Câu hỏi tu từ : càng bộc lộ rõ tâm trạng bơ vơ , lạc longc của ông
– ” Giấy đỏ buồn….trong nghiên sầu ” : nhân hóa , nhấn mạnh nỗi sầu tủi của bút nghiên , cũng chính là nỗi sầu tủi của ông đồ . Hình như , chúng cảm nhận được nỗi buồn của ông .
*Khổ 4 :
– Một lần nữa cho ta cảm nhận nỗi cô đơn , lạc lõng của ông , cảnh vật cũng trở nên buồn bã , tàn tạ
– Bằng nghệ thuật tả cảnh ngụ tình ( mượn cảnh để nói về tâm trạng con người ) , cho ta cảm nhận nỗi sầu tủi của 1 kẻ thất thế , bị người đời lãng quên . Đây cũng là 1 thực tế tàn nhẫn dợi sự tàn tạ của văn học chữ nôm , thay thế bằng nền văn học hiện đại , chữ quốc ngữ
Cái này là mk tự soạn nha , k có copy trên mạng . Xin 5* và ctlhn ‘-‘)