0 bình luận về “mô tả 3 công trình kiến trúc của thời lý”
Kinh thành, cung điện
Đại Việt sử ký toàn thưmô tả việc xây dựng kinh thànhThăng LongthờiLý Thái Tổnhư sau:
Xây dựng các cung điện trong kinh thànhThăng Long, phía trước dựng điện Càn Nguyên làm chỗ coi chầu, bên tả làm điện Tập Hiền, bên hữu dựng điện Giảng Võ. Lại mở cửa Phi Long thông với cung Nghênh Xuân, cửa Đan Phượng thông với cửa Uy Viễn, hướng chính nam dựng điện Cao Minh, đều có 3 thềm rồng, trong thềm rồng có hành lang dẫn ra xung quanh bốn phía…
Cấm Thành (nơi ở của vua) có trục đối xứng bắc – nam, điện Càn Nguyên ở trênnúi Nùng(Long Đỗ). Nhà Lý cho xây dựng 36 cung, 49 điện ở khu trung tâm Cấm thành Thăng Long. Công trình hoàng thành Thăng Long, qua kết quả khai quật của giới khảo cổ học Việt Nam từ năm 2002 đã cho thấy những dấu tích của nghệ thuật kiến trúc thời Lý. Đó là những công trình mang các đặc điểm:
Đẹp và công phu
Phong phú về loại hình (từ 3 hàng chân cột tới 6 hàng chân cột một vì)
Quy mô rộng lớn (có kiến trúc dài 13 gian vẫn chưa kết thúc trong hố khai quật)
Trang trí rất tinh xảo, kết hợp hài hòa giữa các chất liệugỗ–đá–gạch–đấtnung
Quy hoạch thống nhất và cân xứng
Việc khai quật khu Hoàng thành Thăng Long ở 18 Hoàng Diệu (Hà Nội) còn giúp các nhà khảo cổ nhận diện mặt bằng kiến trúc tại đây:
Chân cột bằng đá, móng trụ sỏi, nền nhà lát gạch vuông, có cống thoát nước
Mặt bằng kiến trúc kiểu chữ nhật nhiều gian, có từ 3 cột đến 6 cột, bên cạnh các mặt bằng kiểu lục giác, bát giác
Các sử gia đánh giá kiến trúc hoàng thành Thăng Long đánh dấu bước chuyển biến vượt bậc của nghệ thuật kiến trúc và quy hoạch kinh thành Thăng Long.
Bếnsông Hồngcó điện Hàm Quang, bên hồ Kim Minh có điện Hồ Thiên Bát Giác, trênhồ Dâm Đàmcó cung Tây Hồ. Trong kinh thành có các vườn ngự uyển như Xuân Quang, Thượng Lâm, Quỳnh Lâm, Bảo Hoa… ĐờiLý Thái Tônglàm thêm điện Tuyên Đức, điện Diên Phúc có thềm trước gọi là thềm rồng (long trì), phía đông thềm rồng đặt điện Văn Minh, phía tây đặt điện Quang Vũ.
Chùa, tháp, đền, miếu
Chùa chiền mọc lên khắp nơi và trở thành biểu tượng của sự phát triểnPhật giáorực rỡ thời Lý. Chùa thời Lý được chia làm 3 hạng: Đại, Trung và Tiểu danh lam.
Nổi lên các chùa lớn làchùa Dâu,chùa Phật Tích,chùa Dạm(Bắc Ninh),chùa Long Đọi(Hà Nam). Năm 1049,Lý Thái Tôngcho xâychùa Diên Hựu(chùa Một Cột), dựng cột đá ở giữa ao, làm tòa sen của Phật Quan Âm đặt trên cột đá. Năm1105,Lý Nhân Tôngcho sửa lại, vét hồ Liên Hoa đài, gọi là hồ Linh Chiểu, ngoài hồ có hành lang chạm khắc chạy xung quanh, lại đào hồ Bích Trì có cầu bắc qua để đi lại…
Thời Lý có nhiều quần thể chùa – tháp lớn. Kiến trúc chùa thời Lý thường có nhiều tầng nền giật cấp, bạt sâu vào sườn núi, cao dần lên đỉnh, chỉ một tầng nền đã có chiều dài 120 mét và rộng 70 mét, tất cả được kè đá và bố cục đối xứng qua trục chính tâm và quy hoạch tổng thể, kết hợp hài hòa giữa chùa và tháp. Trong chùa đặt tượng thờ, đồ thờ với nhiều chất liệu khác nhau, kết hợp cả ba yếu tốthiền, tịnh, mậtcủa các tông phái Phật giáo.
Các chùa thường có tháp lớn như tháp Báo Thiên 12 tầng – vài chục mét,tháp Phổ Minhcao 14 tầng – 21 mét, tháp Chiêu Ân 9 tầng, tháp Phật Tích 10 tầng, thápSùng Thiện Diên Linh13 tầng, thápVạn Phong Thành Thiện… Các tháp được trang trí tượng tròn, phù điêu bằng đá, đất nung đẹp và nhiều tranh vẽ Phật trên tường và các bức chạm lộng bằng gỗ với chủ đề động vật, thực vật tươi vui
Ngoài chùa,nhà Lýcòn xây dựng nhiều công trình khác như đền Đồng Cổ, lầu gác trên núi Cung vua,Văn Miếu – Quốc Tử Giám… Việc xây dựng thời Lý được tuân thủ theo một nguyên tắc quy hoạch của phương thuật địa lý thời cổ cho phù hợp với quy luật tự nhiên, hài hòa cao với cảnh quan xung quanh, tận dụng tối đa lợi thế của môi trường. Hệ quả là tạo ra sự hòa hợp lâu dài giữa con người với công trình và thiên nhiên. Chùa thời Lý được đặt trong một quần thể kiến trúc, tại những nơi có cảnh thiên nhiên tươi đẹp và có liên hệ cộng đồng dân cư, gần làng sát nước.
Điêu khắc, đúc tượng
Nghệ thuật điêu khắc thời Lý là một thành tố hiện diện thường trực ngay cả ở những công trình không có tên trong sử sách haybia đácổ cũng được trang hoàng uy nghiêm, bài trí lộng lẫy.[7]
Những công trình điêu khắc tinh tế với những tấm phù điêu mô típ hoa vănhoa cúcnhiều cánh,hoa sen, lá cây và đặc biệt là rồng giun mình trơn nằm gọn trong chiếc lá đề. Đặc điểm chung là chân thực, đơn giản, khỏe mạnh.Ngoài hình tượng rồng thời Lý đặc sắc cho nghệ thuật Việt thì nhiều linh vật được tạc tượng thời Lý cũng mang đặc sắc Việt Nam, dù chịu ảnh hưởng của triết lý Trung Hoa nhưng hoàn toàn khác biệt về hình thức, do đã kết hợp hài hòa với nghệ thuật Chăm Pa và Ấn Độ như con sấu, sư tử, phượng hoàng…
Nghệ thuật đúcchuông– tô tượng rất phổ biến. NướcĐại Việtcó 4 công trình nghệ thuật bằng đồng nổi tiếng được gọi là “An Nam tứ đại khí” thì 3 trong số đó được tạo ra thời Lý
Tháp Báo Thiêncòn gọi là Đại Thắng Tư Thiên Tháp, được xây trên một quả gò cạnh hồ Lục Thủy vào tháng 3 năm1057đời vuaLý Thánh Tông, trong phạm vichùa Báo Thiên. Tháp xây 12 tầng, cao mấy chục trượng
Chuông Quy Điền(chùa Một Cột–Hà Nội) đúc năm1080thờiLý Nhân Tông.
Tượng PhậtDi Lặcchùa Quỳnh Lâm(Đông Triều,Quảng Ninh) do nhà sưDương Không Lộđúc, cao 6 trượng (khoảng 20 mét).
Ngoài ba tác phẩm nghệ thuật đỉnh cao trên (mà hiện không còn tồn tại), các tác phẩm điêu khắc thời Lý còn lại nguyên vẹn đến ngày nay đều được xem là báu vật của nghệ thuật Việt Nam, phần lớn trong số đó được xếp hạng là bảo vật quốc gia
Các tượng người hay vật đều sinh động và có hồn; đường cong lớn và dày đặc, nét uyển chuyển mềm mại, dù làm bằng chất liệu nào. Bố cục các tác phẩm điêu khắc đẹp cân xứng, hài hòa.
+Phong phú về loại hình (từ 3 hàng chân cột tới 6 hàng chân cột một )
+Quy mô rộng lớn (có kiến trúc dài 13 gian vẫn chưa kết thúc trong hố khai quật)
+Trang trí tinh xảo, kết hợp hài hòa giữa các chất liệu gỗ – đá – gạch – đất nung
+Quy hoạch thống nhất và cân xứng
-Chùa, tháp, đền, miếu:
+Chùa chiền mọc lên khắp nơi và trở thành biểu tượng của sự phát triển Phật giáo rực rỡ thời Lý. +Chùa thời Lý được chia làm 3 hạng: Đại, Trung và Tiểu danh lam.
K+Kiến trúc chùa thời Lý thường có nhiều tầng nền giật cấp, bạt sâu vào sườn núi, cao dần lên đỉnh, chỉ một tầng nền đã có chiều dài 120 mét và rộng 70 mét, tất cả được kè đá và bố cục đối xứng qua trục chính tâm và quy hoạch tổng thể, kết hợp hài hòa giữa chùa và tháp.
+Trong chùa đặt tượng thờ, đồ thờ với nhiều chất liệu khác nhau, kết hợp cả ba yếu tố thiền, tịnh, mật của các tông phái Phật giáo.
Kinh thành, cung điện
Đại Việt sử ký toàn thư mô tả việc xây dựng kinh thành Thăng Long thời Lý Thái Tổ như sau:
Xây dựng các cung điện trong kinh thành Thăng Long, phía trước dựng điện Càn Nguyên làm chỗ coi chầu, bên tả làm điện Tập Hiền, bên hữu dựng điện Giảng Võ. Lại mở cửa Phi Long thông với cung Nghênh Xuân, cửa Đan Phượng thông với cửa Uy Viễn, hướng chính nam dựng điện Cao Minh, đều có 3 thềm rồng, trong thềm rồng có hành lang dẫn ra xung quanh bốn phía…
Cấm Thành (nơi ở của vua) có trục đối xứng bắc – nam, điện Càn Nguyên ở trên núi Nùng (Long Đỗ). Nhà Lý cho xây dựng 36 cung, 49 điện ở khu trung tâm Cấm thành Thăng Long. Công trình hoàng thành Thăng Long, qua kết quả khai quật của giới khảo cổ học Việt Nam từ năm 2002 đã cho thấy những dấu tích của nghệ thuật kiến trúc thời Lý. Đó là những công trình mang các đặc điểm:
Việc khai quật khu Hoàng thành Thăng Long ở 18 Hoàng Diệu (Hà Nội) còn giúp các nhà khảo cổ nhận diện mặt bằng kiến trúc tại đây:
Các sử gia đánh giá kiến trúc hoàng thành Thăng Long đánh dấu bước chuyển biến vượt bậc của nghệ thuật kiến trúc và quy hoạch kinh thành Thăng Long.
Bến sông Hồng có điện Hàm Quang, bên hồ Kim Minh có điện Hồ Thiên Bát Giác, trên hồ Dâm Đàm có cung Tây Hồ. Trong kinh thành có các vườn ngự uyển như Xuân Quang, Thượng Lâm, Quỳnh Lâm, Bảo Hoa… Đời Lý Thái Tông làm thêm điện Tuyên Đức, điện Diên Phúc có thềm trước gọi là thềm rồng (long trì), phía đông thềm rồng đặt điện Văn Minh, phía tây đặt điện Quang Vũ.
Chùa, tháp, đền, miếu
Chùa chiền mọc lên khắp nơi và trở thành biểu tượng của sự phát triển Phật giáo rực rỡ thời Lý. Chùa thời Lý được chia làm 3 hạng: Đại, Trung và Tiểu danh lam.
Nổi lên các chùa lớn là chùa Dâu, chùa Phật Tích, chùa Dạm (Bắc Ninh), chùa Long Đọi (Hà Nam). Năm 1049, Lý Thái Tông cho xây chùa Diên Hựu (chùa Một Cột), dựng cột đá ở giữa ao, làm tòa sen của Phật Quan Âm đặt trên cột đá. Năm 1105, Lý Nhân Tông cho sửa lại, vét hồ Liên Hoa đài, gọi là hồ Linh Chiểu, ngoài hồ có hành lang chạm khắc chạy xung quanh, lại đào hồ Bích Trì có cầu bắc qua để đi lại…
Thời Lý có nhiều quần thể chùa – tháp lớn. Kiến trúc chùa thời Lý thường có nhiều tầng nền giật cấp, bạt sâu vào sườn núi, cao dần lên đỉnh, chỉ một tầng nền đã có chiều dài 120 mét và rộng 70 mét, tất cả được kè đá và bố cục đối xứng qua trục chính tâm và quy hoạch tổng thể, kết hợp hài hòa giữa chùa và tháp. Trong chùa đặt tượng thờ, đồ thờ với nhiều chất liệu khác nhau, kết hợp cả ba yếu tố thiền, tịnh, mật của các tông phái Phật giáo.
Các chùa thường có tháp lớn như tháp Báo Thiên 12 tầng – vài chục mét, tháp Phổ Minh cao 14 tầng – 21 mét, tháp Chiêu Ân 9 tầng, tháp Phật Tích 10 tầng, tháp Sùng Thiện Diên Linh 13 tầng, tháp Vạn Phong Thành Thiện… Các tháp được trang trí tượng tròn, phù điêu bằng đá, đất nung đẹp và nhiều tranh vẽ Phật trên tường và các bức chạm lộng bằng gỗ với chủ đề động vật, thực vật tươi vui
Ngoài chùa, nhà Lý còn xây dựng nhiều công trình khác như đền Đồng Cổ, lầu gác trên núi Cung vua, Văn Miếu – Quốc Tử Giám… Việc xây dựng thời Lý được tuân thủ theo một nguyên tắc quy hoạch của phương thuật địa lý thời cổ cho phù hợp với quy luật tự nhiên, hài hòa cao với cảnh quan xung quanh, tận dụng tối đa lợi thế của môi trường. Hệ quả là tạo ra sự hòa hợp lâu dài giữa con người với công trình và thiên nhiên. Chùa thời Lý được đặt trong một quần thể kiến trúc, tại những nơi có cảnh thiên nhiên tươi đẹp và có liên hệ cộng đồng dân cư, gần làng sát nước.
Điêu khắc, đúc tượng
Nghệ thuật điêu khắc thời Lý là một thành tố hiện diện thường trực ngay cả ở những công trình không có tên trong sử sách hay bia đá cổ cũng được trang hoàng uy nghiêm, bài trí lộng lẫy.[7]
Những công trình điêu khắc tinh tế với những tấm phù điêu mô típ hoa văn hoa cúc nhiều cánh, hoa sen, lá cây và đặc biệt là rồng giun mình trơn nằm gọn trong chiếc lá đề. Đặc điểm chung là chân thực, đơn giản, khỏe mạnh. Ngoài hình tượng rồng thời Lý đặc sắc cho nghệ thuật Việt thì nhiều linh vật được tạc tượng thời Lý cũng mang đặc sắc Việt Nam, dù chịu ảnh hưởng của triết lý Trung Hoa nhưng hoàn toàn khác biệt về hình thức, do đã kết hợp hài hòa với nghệ thuật Chăm Pa và Ấn Độ như con sấu, sư tử, phượng hoàng…
Nghệ thuật đúc chuông – tô tượng rất phổ biến. Nước Đại Việt có 4 công trình nghệ thuật bằng đồng nổi tiếng được gọi là “An Nam tứ đại khí” thì 3 trong số đó được tạo ra thời Lý
Ngoài ba tác phẩm nghệ thuật đỉnh cao trên (mà hiện không còn tồn tại), các tác phẩm điêu khắc thời Lý còn lại nguyên vẹn đến ngày nay đều được xem là báu vật của nghệ thuật Việt Nam, phần lớn trong số đó được xếp hạng là bảo vật quốc gia
Các tượng người hay vật đều sinh động và có hồn; đường cong lớn và dày đặc, nét uyển chuyển mềm mại, dù làm bằng chất liệu nào. Bố cục các tác phẩm điêu khắc đẹp cân xứng, hài hòa.
K-Kinh thành, cung điện:
+Đẹp và công phu
+Phong phú về loại hình (từ 3 hàng chân cột tới 6 hàng chân cột một )
+Quy mô rộng lớn (có kiến trúc dài 13 gian vẫn chưa kết thúc trong hố khai quật)
+Trang trí tinh xảo, kết hợp hài hòa giữa các chất liệu gỗ – đá – gạch – đất nung
+Quy hoạch thống nhất và cân xứng
-Chùa, tháp, đền, miếu:
+Chùa chiền mọc lên khắp nơi và trở thành biểu tượng của sự phát triển Phật giáo rực rỡ thời Lý. +Chùa thời Lý được chia làm 3 hạng: Đại, Trung và Tiểu danh lam.
K+Kiến trúc chùa thời Lý thường có nhiều tầng nền giật cấp, bạt sâu vào sườn núi, cao dần lên đỉnh, chỉ một tầng nền đã có chiều dài 120 mét và rộng 70 mét, tất cả được kè đá và bố cục đối xứng qua trục chính tâm và quy hoạch tổng thể, kết hợp hài hòa giữa chùa và tháp.
+Trong chùa đặt tượng thờ, đồ thờ với nhiều chất liệu khác nhau, kết hợp cả ba yếu tố thiền, tịnh, mật của các tông phái Phật giáo.