Mọi người ơi giúp em câu này với Em hãy tìm hiểu về vị thế lịch sử và địa lý của thành Đại La?

By Skylar

Mọi người ơi giúp em câu này với
Em hãy tìm hiểu về vị thế lịch sử và địa lý của thành Đại La?

0 bình luận về “Mọi người ơi giúp em câu này với Em hãy tìm hiểu về vị thế lịch sử và địa lý của thành Đại La?”

  1. Đại La ban đầu do Trương Bá Nghi cho đắp từ năm Đại Lịch thứ 2 đời Đường Đại Tông ( 767 ) ; Triệu Xương cho đắp thêm năm Trinh Nguyên thứ 7 đời Đường Đức Tông ( 791 ).

    Đến năm Nguyên Hòa thứ 3 đời Đường Hiến Tông ( 808 ) , Trương Chu lại sửa đắp lại , năm Trường Khánh thứ 4 đời Đường Mục Tông ( 824 ) , Lý Nguyên Gia dời phủ trị tới bên sông Tô Lịch , đắp một cái thành nhỏ, gọi là La Thành , sau đó Cao Biền cho đắp lại to lớn hơn.

    Theo sử cũ thì La Thành do Cao Biền cho đắp có chu vi 1.982,5 trượng ( 6,6 km); thành cao 2,6 trượng ( 8,67 m), chân thành rộng 2,5 trượng ( 8,33 m), nữ tường bốn mặt cao 5,5 thước ( 1,83 m), với 55 lầu vọng địch, 6 nơi úng môn , 3 hào nước , 34 đường đ i. Ông còn cho đắp đê vòng quanh ngoài thành dài 2.125,8 trượng ( 7,09km), đê cao 1,5 trượng ( 5,00 m), chân đê rộng 2 trượng ( 6,66m) và làm hơn 400.000 gian nhà .

    Theo truyền thuyết, do thành xây đi xây lại vẫn bị sụt ở vùng sông Tô Lịch, Cao Biền đã cho trấn yểm tại đây để làm cho đất vững và chặn dòng long mạch của vùng đất này. Các di chỉ tìm được trong lòng sông tháng 9 năm 2001 được một số nhà nghiên cứu cho là di tích của bùa yểm này .

    Năm 1010 , Lý Công Uẩn tức Lý Thái Tổ ra Chiếu Dời Đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) đến Đại La và lấy tên này làm tên thành . Cũng trong năm 1010 , vua Lý Thái Tổ đổi tên phủ thành Đại La là thành Thăng Long . 

    Hok tốt ! Hay nhất nha !!!!!!!!

    Trả lời
  2. 1.Giới thiệu tổng quan về di tích

    Hoàng thành Thăng Long là quần thể di tích gắn với lịch sử kinh thành Thăng Long và tỉnh thành Hà Nội bắt đầu từ thời kì tiền Thăng Long (An Nam đô hộ phủ thế kỷ VII) qua thời Đinh – Tiền Lê, phát triển mạnh dưới thời Lý, Trần, Lê và thành Hà Nội dưới triều Nguyễn. Đây là công trình kiến trúc đồ sộ, được các triều vua xây dựng trong nhiều giai đoạn lịch sử và trở thành di tích quan trọng bậc nhất trong hệ thống các di tích của Hà Nội nói riêng và cả nước nói chung. Tại kỳ họp lần thứ 34 tại Braxin ngày 31/7/2010, Ủy ban Di sản Thế giới họp đã công nhận Khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long – Hà Nội là Di sản văn hóa thế giới với các tiêu chí giá trị: minh chứng cho sự giao lưu giữa các ảnh hưởng đến chủ yếu từ Trung Quốc ở phía Bắc và Vương quốc Champa ở phía Nam; minh chứng cho truyền thống văn hóa lâu dài của người dân Việt được thành lập ở đồng bằng sông Hồng, đó là một trung tâm quyền lực liên tục từ TK 7 cho đến tận ngày nay; liên quan trực tiếp tới nhiều sự kiện văn hóa – lịch sử quan trọng.

    Khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long được ghi vào Danh mục Di sản Thế giới là một sự kiện có ý nghĩa cực kỳ to lớn đối với Việt Nam, thể hiện những bước đi vững chắc của chúng ta trong công cuộc bảo tồn, phát huy giá trị đối với di tích đặc biệt quan trọng này.

    Hiện nay, khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long – Hà Nội (bao gồm thành cổ Hà Nội và di tích Khảo cổ học 18 Hoàng Diệu) nằm trên một khuôn viên khá rộng: 18,395ha, thuộc địa bàn phường Điện Biên và Quán Thánh, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội, được giới hạn bởi:

    Phía Bắc giáp: đường Phan Đình Phùng và đường Hoàng Văn Thụ.

    Phía Tây giáp: đường Hoàng Diệu, đường Độc Lập và khuôn viên Nhà Quốc hội mới.

    Phía Nam giáp: đường Bắc Sơn và khuôn viên Nhà Quốc hội mới.

    Phía Tây Nam giáp: đường Điện Biên Phủ.

    Phía Đông giáp: đường Nguyễn Tri Phương.

    Lý Thái Tổ – vị Vua sáng lập triều Lý đã chọn Đại La, vốn là trung tâm kinh tế, văn hóa của đất nước thời đó, để xây dựng kinh đô mới. Năm 1010, việc rời đô từ Hoa Lư ra Đại La đã được thực hiện. Kinh đô mới được đặt tên là Thăng Long. Trải qua các triều đại Lý, Trần, Lê, thành Thăng Long liên tục giữ vị trí là kinh đô của đất nước. Theo các sách Việt sử lượcĐại Việt sử ký toàn thư thì: Sau khi định đô ở Thăng Long, vua Lý Thái Tổ đã cho xây dựng quần thể kiến trúc cung điện, mà trung tâm là điện Càn Nguyên, làm chỗ coi chầu, bên tả làm điện Tập Hiền, bên hữu làm điện Giảng Võ. Phía trước là Long Trì (Ao rồng), lại mở cửa Phi Long thông với cung Nghinh Xuân, cửa Đan Phượng thông với cửa Uy Viễn, chính hướng Nam là điện Cao Minh, thềm gọi là thềm rồng; bên trong thềm rồng có mái cong, hàng hiên bao quanh bốn mặt. Sau điện Càn Nguyên dựng hai điện là Long An và Long Thụy làm nơi nghỉ ngơi; bên tả làm điện Nhật Quang, bên hữu làm điện Nguyệt Minh; đằng sau dựng hai cung Thuý Hoa và Long Thụy làm chỗ cho cung nữ, phía Đông gọi là cửa Tường Phù, phía Tây gọi là cửa Quảng Phúc, phía Nam gọi là cửa Đại Hưng, phía Bắc là cửa Diệu Đức. Ở trong thành làm chùa Hưng Thiên Ngự và lầu Ngũ Phượng Tinh, bên ngoài thành làm chùa Thắng Nghiêm ở phía Nam. (Càn là một trong bát quái, tượng trưng cho dương tính, cương kiện. Càn là Trời, là vua, là cha.  Nguyên là bắt đầu, là đệ nhất, là thiên địa vạn vật, là bản nguyên).

    Năm 1027, điện Càn Nguyên bị sét đánh gây hư hỏng nặng và đã bị phá bỏ trong vụ “loạn tam vương” (1028). Đến năm Thiên Thành thứ hai (1029) vua Lý Thái Tông thấy rồng hiện ở nền cũ điện Càn Nguyên, nên đã cho xây dựng lại chính điện trên đó và đổi tên là điện Thiên An. Đồng thời một loạt cung điện mới được xây dựng xung quanh điện này, bên trái là điện Tuyên Đức, bên phải là điện Diên Phúc, phía trước điện Thiên An là Long Trì. Hai bên tả hữu Long Trì đặt lầu chuông để dân ai có việc kiện tụng oan uổng thì đánh chuông lên. Bốn xung quanh Long Trì có hành lang để các quan hội họp và cấm quân túc vệ. Phía trước là điện Phụng Thiên, trên điện dựng lầu Chính Dương làm nơi giữ giờ khắc. Phía sau dựng điện Trường Xuân, trên điện dựng gác Long Đồ làm nơi nghỉ ngơi ngắm cảnh. Bên ngoài đắp tường thành quây lại gọi là Long Thành, tiền thân của Long Phượng Thành, Cấm Thành ở các thời Trần, Lê. 

    Đến cuối thời Lý, xảy ra nhiều cuộc chính biến tranh giành quyền lực, khu vực Cấm Thành trong thành Thăng Long đã bị tàn phá rất nhiều. Khi xác lập được quyền bính trong tay, các vua Trần đã cho xây dựng, sửa sang lại Hoàng Cung, Cấm Thành. Trong thành nội, từ năm 1230, lập cung điện, lầu gác làm nơi thiết triều, phía Đông phía Tây làm hành lang, giải vũ. Bên trái là cung Thánh Từ – nơi Thượng Hoàng ở, bên phải là cung Quan Triều – nơi vua ở.

    Năm 1243, xây nội thành gọi là Long Phượng. Nguyên sử chép về thành Long Phượng khi quân Nguyên tiến chiếm năm 1285 như sau: “Cung thất có 5 cửa, trên đề Đại Hưng  môn, có cửa nách ở bên phải và bên trái. Chính điện có 9 gian đề Thiên An ngự điện, cửa chính Nam đề Triều Thiên các”. Thực ra, cửa Đại Hưng là cửa Nam của Hoàng Thành ở khoảng chợ Cửa Nam bây giờ, cửa làm theo kiểu tam quan, lại kèm thêm hai cửa nách nên gọi là “ngũ môn”. Trên cửa có lầu. Qua cổng Nam của Hoàng Thành đi sâu vào bên trong, phải qua một cổng nữa mới tới chính điện của Hoàng cung. Cổng đó cũng ở chính Nam, gọi là Dương Minh môn, trên cổng có gác, gọi là Triều Thiên các. Cửa nách bên trái gọi là Nhật Tân môn, cửa nách bên phải gọi là Vân Nội môn, bên trong có “Thiên Tỉnh” điện Tập Hiền, trên điện có gác lớn gọi là Minh Linh các, từ phía bên phải đi tới còn thấy một điện lớn nữa gọi là Đức Huy điện, cửa bên trái gọi là Đông Lạc môn, cửa bên phải là Kiều Ứng môn.

    Ngoài các cung điện mô tả ở trên, trong Hoàng cung còn có nhiều cung điện khác. Điện Diên Hồng là nơi diễn ra Hội nghị Diên Hồng thời Trần nổi tiếng trong lịch sử. Điện Diên Hồng, điện Bát Giác là nơi vua thiết yến các quan. Vọng lâu là nơi vua ngự xem lính đấu nhau với voi, hổ.

    Kiến trúc trong Hoàng Cung, Cấm Thành đời Trần có thể tóm lược như sau:

    – Cửa thành: Đầu là lối cửa tam quan, dưới là cổng (một chính, hai phụ), trên là gác hai lầu. Cửa rộng và sâu nên phía trên lầu gác cũng khang trang rộng rãi, vua quan có thể tổ chức hội họp, yến tiệc…

    – Điện: Xây trên nền cao, phải bước qua nhiều bậc mới lên tới điện. Nhiều điện kiến trúc hai tầng, dưới là điện trên là gác.

    Điện đều có hành lang rộng, đảm bảo thoáng mát, trên hành lang có thể bày tiệc được.

    Trong 3 lần kháng chiến chống quân Nguyên – Mông (1258, 1285, 1288) thành quách, lâu đài, cung điện đã bị giặc đốt phá. Tiếp đến vào các năm 1371, 1378 quân Chiêm Thành đánh vào Thăng Long, một lần nữa những lầu son gác tía lại chịu cảnh tàn phá.

    Sang thời kỳ nhà hậu Lê, sau khi đánh đuổi giặc Minh, thống nhất non sông đất nước, vua Lê Thái Tổ vẫn giữ Thăng Long làm kinh đô và bắt đầu tiến hành việc xây dựng lại các cung điện. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, điện Kính Thiên được xây dựng vào năm 1428 đời vua Lê Thái Tổ, công việc được tiến hành trong nhiều năm và hoàn thiện vào đời vua Lê Thánh Tông. Điện Kính Thiên được xây dựng trên núi Nùng (một biểu tượng về hình thế tự nhiên của Thăng Long) ngay trên nền cũ của chính điện Càn Nguyên, Thiên An thời Lý. Phía trước điện Kính Thiên có điện Thị Triều, phía Đông là điện Vạn Thọ, phía Tây là điện Chí Kính.

    Năm 1490, vua Lê Thánh Tông đã “nhân theo quy chế cũ nhà Lý, nhà Trần” sai quân đắp thêm “Phượng Thành” ra ngoài trường đấu võ. Năm 1514, để thoả mãn nhu cầu ăn chơi xa xỉ, vua Lê Tương Dực lại “đắp thành bao sông Tô Lịch”, “sông dài mấy nghìn trượng, bao vây cả điện Tường Quan, quán Trấn Vũ, chùa Thiên Hoa ở phường Kim Cổ, trên đắp Hoàng Thành, dưới làm cửa cống, lấy ngói vỡ và đất đá nện xuống, lấy đá phiến gạch vuông xây nền, lấy sắt xâu ngang”. Đây là Hoàng Thành có diện tích và chu vi lớn nhất so với Hoàng Thành Thăng Long ở các thời kỳ trước và sau đấy.

    Thời Lê sơ, điện Kính Thiên là nơi vua thiết triều. Thời Lê Trung Hưng, với sự hiện diện của lầu Kính Thiên trong phủ chúa Trịnh, điện Kính Thiên được sử dụng làm nơi thờ trời đất và diễn ra những nghi thức quan trọng như lễ lên ngôi và ban chiếu, lễ thánh thọ, lễ tiết chính đán…      

    Sang thế kỷ 18, Hoàng Cung không được tu sửa thường xuyên do quyền hành vào tay chúa Trịnh. Phủ chúa ngoài Hoàng Thành được mở rộng còn tường Hoàng Thành thì bị sụt lở nhiều.

    Cuối thế kỷ 18, khi quân Tây Sơn ra Bắc, các cửa Hoàng Thành đã đổ gần hết, chỉ còn lại hai cửa Đại Hưng và Đông Hoa.

    Khi vua Quang Trung lên ngôi, tạm đóng đô ở Phú Xuân – Huế và xây dựng Vinh làm Phượng Hoàng Trung đô, Thăng Long trở thành trị sở của trấn Bắc Thành. Nhà Tây Sơn đã cho sửa đắp lại Hoàng Thành “theo nền cũ đắp thành quanh từ cửa Đông Hoa đến cửa Đại Hưng” và làm thêm một số công trình mới.   

    Tiếp đó, nhà Nguyễn (1802 – 1945) tiếp tục lấy Huế làm nơi định đô và Thăng Long vẫn giữ vai trò là trị sở của trấn Bắc Thành. Năm 1803 – 1805, vua Gia Long cho xây dựng lại thành Thăng Long theo kiểu Vauban (một kiểu kiến trúc thành lũy quân sự của người Pháp). Năm 1805, trong tên Thăng Long, chữ Long là rồng đổi thành chữ Long là thịnh vượng.

    Năm 1831, vua Minh Mạng thực hiện một cuộc cải cách hành chính lớn, lập các tỉnh trong đó có tỉnh Hà Nội. Tên Hà Nội có từ đây và thành Hà Nội là trị sở của tỉnh Hà Nội.

    Cuối thế kỷ 19, khi chiếm được Hà Nội, người Pháp đã phá thành Hà Nội và biến nơi đây thành nơi đóng quân. Năm 1886, phá điện Kính Thiên xây trụ sở chỉ huy pháo binh của quân đội Pháp.

    Từ sau năm 1954, khu vực Thành cổ Thăng Long – Hà Nội trở thành trụ sở làm việc của Bộ Quốc phòng. Từ đây, có thêm nhiều di tích cách mạng trong khu vực thành cổ, điển hình là Di tích cách mạng Nhà D67. Tại nơi này nhiều quyết định quan trọng của Bộ Chính trị và quân đội ta trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã được ra đời, tiêu biểu là trong Chiến dịch Mậu Thân (1968), trong cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ 12 ngày đêm cuối năm 1972 và đặc biệt là Chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước (30/4/1975).

    Sau khi nước nhà thống nhất, đây vẫn là nơi làm việc của Bộ Quốc phòng và nhiều quyết định quan trọng trong cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc, biên giới Tây Nam cũng được ra đời từ đây.

    Như vậy, từ khi vua Lý Thái Tổ định đô ở Thăng Long cho đến nay, thành Thăng Long gần như liên tục giữ vị trí là quốc đô, trừ vài gián đoạn ngắn. Vào những năm từ 1397 – 1400, Hồ Quý Ly sau khi tiếm quyền của nhà Trần, đã dời đô về Thanh Hoá lập thành Tây Đô, nhưng Thăng Long vẫn mang tên là Đông Đô. Thời thuộc Minh với tên gọi thành Đông Quan, Thăng Long vẫn là thủ phủ của chính quyền đô hộ. Thời Lê sơ (thế kỷ 15) đổi tên gọi là Đông Kinh, Thăng Long trở lại vị trí quốc đô. Thời Tây Sơn, khi Quang Trung đóng đô ở Phú Xuân – Huế (1788 – 1802) và thời Nguyễn (1802 – 1945) khi Gia Long tiếp tục đóng đô ở Huế, Thăng Long vẫn là đô thị hàng đầu của đất nước. Thời Pháp thuộc, Hà Nội là thủ phủ của toàn xứ Đông Dương thuộc Pháp. Sau Cách mạng tháng 8 – 1945, Hà Nội khôi phục vị trí Thủ đô của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, rồi nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam cho đến nay. Đây là đặc điểm nổi bật và rất độc đáo của Thăng Long – Hà Nội mà hiếm thấy một Thủ đô của quốc gia nào trên thế giới có được.

    Trả lời

Viết một bình luận