Nêu đặc điểm tình hình Vĩnh Long giai đoạn năm 1959-1930 ?
0 bình luận về “Nêu đặc điểm tình hình Vĩnh Long giai đoạn năm 1959-1930 ?”
Để chuẩn bị cho việc thiết lập bộ máy tổ chức hành chính, Chúa Nguyễn lập phủ Gia Định, dựng Dinh Trấn Biên và Dinh Phiên Trấn năm 1698 và giao cho Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh tổ chức thực hiện. Năm Nhâm Tý 1732, Chúa Nguyễn Phúc Trú thiết lập phía nam Dinh Trấn Biên, Dinh Phiên Trấn đơn vị hành chánh mới là Long Hồ Dinh, Châu Định Viễn .
Lỵ sở Long Hồ đóng ở thôn An Bình Đông, huyện Kiến Đăng, thường gọi là Cái Bè (Mỹ Tho). Năm 1757, chuyển về phía Nam sông Tiền thuộc xứ Tầm Bào, thôn Long Hồ (tức địa phận thành phố Vĩnh Long ngày nay).
Địa giới Dinh Long Hồ gồm cả dãy đồng bằng sông Tiền và sông hậu, gồm cả tỉnh Bến Tre, Trà Vinh, An Giang ngày nay.
Sau năm 1749, Dinh Long Hồ được mở rộng thêm, nhập vùng đất Long Xuyên, Kiên Giang, Trấn Di (Minh Hải), Trấn Giang (Cần Thơ), cả một vùng rộng lớn từ biển Đông đến giáp Campuchia, vị trí Dinh Long Hồ là trung tâm của châu thổ sông Cửu Long.
Lê Quí Đôn đã ghi: “Châu Định Viễn dân hơn 7.000 đinh, ruộng hơn 7.000 thửa, thuế mỗi hạng nhất 4 hộc, hạng nhì 3 hộc, Châu Định Viễn ruộng không cày, phác cỏ rồi cấy, một học thóc gặt được 300 hộc”.
Năm 1779, Nguyễn Phúc Ánh quyết định đổi dinh Long Hồ thành dinh Hoằng Trấn. Dinh Hoằng Trấn có một châu là Châu Dịnh Viễn và ba tổng Bình An, Bình Dương và Tân An để tiện việc quản lý về an ninh trật tự, lỵ sở Hoằng Trấn dời về Bà Lúa ở Cù Lao Tân Dinh (còn gọi là Bãi hoằng Trấn ) nay thuộc ấp Tân Dinh, xã An Phú Tân (Cầu Kè – Trà Vinh). Chỉ vài tháng sau, Nguyễn Phúc Ánh đổi Dinh Hoằng Trấn thành Vĩnh Trấn. Phạm vi Vĩnh Trấn hẹp hơn Dinh Long Hồ (vì cắt một phần đất Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cần Thơ để lập Trấn Định ) và dơi lỵ sở Vĩnh trấn về nơi cũ Tầm Bào (tức thành phố Vĩnh Long ngày nay).
Năm 1802, vua Gia Long đổi Phủ Gia Định thành Trấn Gia Định, rồi Thành Gia Định (1806), Hoằng Trấn đổi thành Trấn Vĩnh Thanh là một trong 05 trấn thuộc Thành Gia Định (Phiên An, Biên Hòa, Vĩnh Thanh, Dịnh Tường, Hà Tiên). Trấn Vĩnh Thanh lúc này có số dân 37.000 người, đất nông nghiệp 139.932 mẫu .
Ngày 22/2/1813, Triều vua Gia Long thứ 12 cho tiến hành xây dựng thành từ công thự tại thôn Bình An và Trường Xuân thuôc làng Long Hồ, gọi là Thành Long Hồ (nay phường 1, thành phố Vĩnh Long). Trấn Vĩnh Thanh phía Đông giáp huyện Kiến Hòa (Định Tường), phía Tây giáp Campuchia, phía Nam giáp Kiên Giang, Long Xuyên (sông Hậu), Đông Nam giáp Biển Đông, phía Bắc giáp Mỹ Tho. Đông sang Tây 200 dậm, Nam Bắc 350 dậm gồm 1 phủ, 4 huyện, 6 tổng 356 làng.
Năm 1832, vua Minh Mạng thiết lập đơn vị hành chính đổi trấn thành tỉnh, Nam Bộ có 6 tỉnh (gọi Nam Kỳ Lục Tỉnh), trấn Vĩnh Thanh thành tỉnh Vĩnh Long. Tổ chức hành chính năm 1837 tỉnh Vĩnh Long có 4 phủ, 8 huyện, 47 tổng 408 xã.
Năm 1840, Côn Đảo sát nhập vào tỉnh Vĩnh Long và từ đây tỉnh Vĩnh Long ổn định vị trí cho đến khi Pháp xâm chiếm.
Năm 1875, Pháp tách tỉnh Vĩnh Long lập tỉnh Trà Vinh; năm 1899, tiếp tục tách lập tỉnh Bến Tre. Theo Nghị định ngày 20/12/1899 của Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer, tỉnh Vĩnh Long là 1 trong 21 tỉnh Nam Kỳ. Toàn tỉnh có 13 tổng, 105 làng tương đương địa giới các huyện Vũng Liêm, Tam Bình, Long Hồ, Măng Thít, thành phố Vĩnh Long và Chơ Lách (nay thuộc Bến Tre ) ngày nay.
Sau Cách mạng Tháng Tám thành công, tỉnh Vĩnh Long bấy giờ gồm 4 quận Châu Thành, Tam Bình, Vũng Liêm và Chợ Lách. Để tiện hoạt động kháng chiến chống giặc Pháp, ngày 16/5/1948, tỉnh Vĩnh Long được nhập thêm 2 huyện Cầu Kè và Trà ôn (Cần Thơ ) và tách quận Châu Thành thành 2 quận: Quận Nhất và Quận Nhì nên tỉnh Vĩnh Long có Quận Nhất, Quận Nhì, Tam Bình, Cầu Kè, Vũng Liêm và Trà Ôn với 63 làng và 217.600 dân.
Năm 1951, nhập Vĩnh Long – Trà Vinh thành Vĩnh Trà gồm 10 huyện, thị: Thị xã Vĩnh Long, Thị xã Trà Vinh, các quận: Vũng Liêm, Tam Bình, Cái Ngang, Châu Thành, Càng Long, Trà Cú, Cầu Ngang và Duyên Hải (chính quyền Sài Gòn vẫn là 2 tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh). Năm 1954, tách tỉnh Vĩnh Trà thành 2 tỉnh Vĩnh Long – Trà Vinh, tỉnh Vĩnh Long gồm thị xã Vĩnh Long, quận Châu Thành, quận Chợ Lách, quận Tam Bình, quận Long Hồ. Năm 1956, thành lập thêm huyện Bình Minh. Năm 1969, nhập 2 huyện Vũng Liêm, Trà Ôn (Trà Vinh) vào Vĩnh Long. Trong quá trình kháng chiến chống Mỹ có lúc nhập các huyện Châu Thành, Lấp Vò, Lai Vung, thị xã Sa Đéc (tỉnh Đồng Tháp ngày nay) vào tỉnh Vĩnh Long và sau 1969, tách huyện Chợ Lách về Bến Tre. Năm 1976 nhập 2 tỉnh Vĩnh Long, Trà Vinh thành tỉnh Cửu Long gồm 14 huyện, thị và ngày 28/12/1991, tách Cửu Long thành tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh ( chính thức hoạt động ngày 5/5/1992).
Để chuẩn bị cho việc thiết lập bộ máy tổ chức hành chính, Chúa Nguyễn lập phủ Gia Định, dựng Dinh Trấn Biên và Dinh Phiên Trấn năm 1698 và giao cho Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh tổ chức thực hiện. Năm Nhâm Tý 1732, Chúa Nguyễn Phúc Trú thiết lập phía nam Dinh Trấn Biên, Dinh Phiên Trấn đơn vị hành chánh mới là Long Hồ Dinh, Châu Định Viễn .
Lỵ sở Long Hồ đóng ở thôn An Bình Đông, huyện Kiến Đăng, thường gọi là Cái Bè (Mỹ Tho). Năm 1757, chuyển về phía Nam sông Tiền thuộc xứ Tầm Bào, thôn Long Hồ (tức địa phận thành phố Vĩnh Long ngày nay).
Địa giới Dinh Long Hồ gồm cả dãy đồng bằng sông Tiền và sông hậu, gồm cả tỉnh Bến Tre, Trà Vinh, An Giang ngày nay.
Sau năm 1749, Dinh Long Hồ được mở rộng thêm, nhập vùng đất Long Xuyên, Kiên Giang, Trấn Di (Minh Hải), Trấn Giang (Cần Thơ), cả một vùng rộng lớn từ biển Đông đến giáp Campuchia, vị trí Dinh Long Hồ là trung tâm của châu thổ sông Cửu Long.
Lê Quí Đôn đã ghi: “Châu Định Viễn dân hơn 7.000 đinh, ruộng hơn 7.000 thửa, thuế mỗi hạng nhất 4 hộc, hạng nhì 3 hộc, Châu Định Viễn ruộng không cày, phác cỏ rồi cấy, một học thóc gặt được 300 hộc”.
Năm 1779, Nguyễn Phúc Ánh quyết định đổi dinh Long Hồ thành dinh Hoằng Trấn. Dinh Hoằng Trấn có một châu là Châu Dịnh Viễn và ba tổng Bình An, Bình Dương và Tân An để tiện việc quản lý về an ninh trật tự, lỵ sở Hoằng Trấn dời về Bà Lúa ở Cù Lao Tân Dinh (còn gọi là Bãi hoằng Trấn ) nay thuộc ấp Tân Dinh, xã An Phú Tân (Cầu Kè – Trà Vinh). Chỉ vài tháng sau, Nguyễn Phúc Ánh đổi Dinh Hoằng Trấn thành Vĩnh Trấn. Phạm vi Vĩnh Trấn hẹp hơn Dinh Long Hồ (vì cắt một phần đất Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cần Thơ để lập Trấn Định ) và dơi lỵ sở Vĩnh trấn về nơi cũ Tầm Bào (tức thành phố Vĩnh Long ngày nay).
Năm 1802, vua Gia Long đổi Phủ Gia Định thành Trấn Gia Định, rồi Thành Gia Định (1806), Hoằng Trấn đổi thành Trấn Vĩnh Thanh là một trong 05 trấn thuộc Thành Gia Định (Phiên An, Biên Hòa, Vĩnh Thanh, Dịnh Tường, Hà Tiên). Trấn Vĩnh Thanh lúc này có số dân 37.000 người, đất nông nghiệp 139.932 mẫu .
Ngày 22/2/1813, Triều vua Gia Long thứ 12 cho tiến hành xây dựng thành từ công thự tại thôn Bình An và Trường Xuân thuôc làng Long Hồ, gọi là Thành Long Hồ (nay phường 1, thành phố Vĩnh Long). Trấn Vĩnh Thanh phía Đông giáp huyện Kiến Hòa (Định Tường), phía Tây giáp Campuchia, phía Nam giáp Kiên Giang, Long Xuyên (sông Hậu), Đông Nam giáp Biển Đông, phía Bắc giáp Mỹ Tho. Đông sang Tây 200 dậm, Nam Bắc 350 dậm gồm 1 phủ, 4 huyện, 6 tổng 356 làng.
Năm 1832, vua Minh Mạng thiết lập đơn vị hành chính đổi trấn thành tỉnh, Nam Bộ có 6 tỉnh (gọi Nam Kỳ Lục Tỉnh), trấn Vĩnh Thanh thành tỉnh Vĩnh Long. Tổ chức hành chính năm 1837 tỉnh Vĩnh Long có 4 phủ, 8 huyện, 47 tổng 408 xã.
Năm 1840, Côn Đảo sát nhập vào tỉnh Vĩnh Long và từ đây tỉnh Vĩnh Long ổn định vị trí cho đến khi Pháp xâm chiếm.
Năm 1875, Pháp tách tỉnh Vĩnh Long lập tỉnh Trà Vinh; năm 1899, tiếp tục tách lập tỉnh Bến Tre. Theo Nghị định ngày 20/12/1899 của Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer, tỉnh Vĩnh Long là 1 trong 21 tỉnh Nam Kỳ. Toàn tỉnh có 13 tổng, 105 làng tương đương địa giới các huyện Vũng Liêm, Tam Bình, Long Hồ, Măng Thít, thành phố Vĩnh Long và Chơ Lách (nay thuộc Bến Tre ) ngày nay.
Sau Cách mạng Tháng Tám thành công, tỉnh Vĩnh Long bấy giờ gồm 4 quận Châu Thành, Tam Bình, Vũng Liêm và Chợ Lách. Để tiện hoạt động kháng chiến chống giặc Pháp, ngày 16/5/1948, tỉnh Vĩnh Long được nhập thêm 2 huyện Cầu Kè và Trà ôn (Cần Thơ ) và tách quận Châu Thành thành 2 quận: Quận Nhất và Quận Nhì nên tỉnh Vĩnh Long có Quận Nhất, Quận Nhì, Tam Bình, Cầu Kè, Vũng Liêm và Trà Ôn với 63 làng và 217.600 dân.
Năm 1951, nhập Vĩnh Long – Trà Vinh thành Vĩnh Trà gồm 10 huyện, thị: Thị xã Vĩnh Long, Thị xã Trà Vinh, các quận: Vũng Liêm, Tam Bình, Cái Ngang, Châu Thành, Càng Long, Trà Cú, Cầu Ngang và Duyên Hải (chính quyền Sài Gòn vẫn là 2 tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh). Năm 1954, tách tỉnh Vĩnh Trà thành 2 tỉnh Vĩnh Long – Trà Vinh, tỉnh Vĩnh Long gồm thị xã Vĩnh Long, quận Châu Thành, quận Chợ Lách, quận Tam Bình, quận Long Hồ. Năm 1956, thành lập thêm huyện Bình Minh. Năm 1969, nhập 2 huyện Vũng Liêm, Trà Ôn (Trà Vinh) vào Vĩnh Long. Trong quá trình kháng chiến chống Mỹ có lúc nhập các huyện Châu Thành, Lấp Vò, Lai Vung, thị xã Sa Đéc (tỉnh Đồng Tháp ngày nay) vào tỉnh Vĩnh Long và sau 1969, tách huyện Chợ Lách về Bến Tre. Năm 1976 nhập 2 tỉnh Vĩnh Long, Trà Vinh thành tỉnh Cửu Long gồm 14 huyện, thị và ngày 28/12/1991, tách Cửu Long thành tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh ( chính thức hoạt động ngày 5/5/1992).