Nêu hành trình cứu nước của Nguyễn Ái Quốc và vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập

Nêu hành trình cứu nước của Nguyễn Ái Quốc và vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập

0 bình luận về “Nêu hành trình cứu nước của Nguyễn Ái Quốc và vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập”

  1. 1. Hành trình tìm đường cứu nước:

    + Người sinh ngày 19/5/1890 tại Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ An trong gia đình nhà nho yêu nước. Người thanh niên Nguyễn Tất Thành sớm có lòng yêu nước và cũng sớm nhận thấy những hạn chế trong chủ trương cứu nước của các vị tiền bối nên đã quyết định sang Phương Tây tìm con đường cứu nước mới.

    + Ngày 5 – 6 – 1911 Người đi tìm đường cứu nước từ cảng Nhà Rồng (Sài Gòn nay là TP. HCM). Người lấy tên là Văn Ba, làm phụ bếp cho tầu vận tải Latusơ Tơrêvin sang Pháp cấp bến cảng Mac Xây ngày 6/7/1911. Trên đường đi, Người có ghé qua cảng Colôngbô (Xâylan), cảng Poxait (Ai Cập)….Sau những năm bôn ba qua nhiều nước TBCN và thuộc địa, và làm nhiều nghề khác nhau, Người đã nhận thấy kẻ thù của cách mạng là bọn đế quốc và lực lượng của cách mạng là giai cấp công nhân.

    + Tháng 11/1917, CM tháng 10 Nga thành công đã ảnh hưởng quyết định đến xu hướng hoạt động của Người.

    + 1919 Người lấy tên Nguyễn ái Quốc, gửi đến hội nghị Vecxai (của các nước đế quốc) bản yêu sách 8 điểm về quyền tự quyết của dân tộc Việt Nam. Sự kiện đó đã thức tỉnh ý thức đấu tranh của nhân dân ta.

    + Tháng 7/1920, Người đọc “Sơ thảo luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin và tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc ta là CMVS.

    + Tháng 12/1920 Người tham gia hội nghị Tua (của Đảng xã hội Pháp), Người đã bỏ phiếu tán thành Quốc tế thứ ba, tham gia sáng lập ĐCS Pháp và trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên.

    Như vậy sau nhiều năm bôn ba hải ngoại, Người đã tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn: kết hợp giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, kết hợp độc lập dân tộc với CNXH.

    2. Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị cho việc thành lập Đảng cộng sản(1920 – 1930)

    a. Thời kỳ ở Pháp (1920 – 1923)

    + 1921: Người cùng với một số nhà yêu nước ở các thuộc địa Pháp sáng lập “Hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa” để xây dựng tình đoàn kết giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân thuộc địa thế giới.

    + 1922: Người xây dựng báo “Lơ Paria” (Người cùng khổ). Trong thời gian ở Pháp, Người viết nhiều bài đăng trên báo “nhân đạo” cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Pháp), báo “Đời sống công nhân” (của Tổng liên đoàn lao động Pháp). Người viết vở kịch “Con Rồng tre” để chế giễu tên vua bù nhìn Khải Định khi hắn sang Pháp. Song tiêu biểu nhất là cuốn “Bản án chế độ thực dân Pháp”. Những sách báo do Người viết một mặt tố cáo tội ác của bọn đế quốc, nhất là đế quốc Pháp ở Đông Dương, mặt khác khích lệ lòng yêu nước cho đồng bào, tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lênin và vận động quần chúng đấu tranh.

    b. Thời kỳ ở Liên Xô (1923 – 1924)

    + Tháng 6 – 1923, Nguyễn ái Quốc bí mật rời Pháp đi Liên Xô dự Hội nghị Quốc tế nông dân (10/1923). Trong thời gian này, Người viết nhiều bài báo đăng trên tờ “Sự thật” cơ quan ngôn luận của Đảng cộng sant Liên Xô, tạp chí “Thư tín quốc tế” của Quốc tế cộng sản.

    + Người còn dự nhiều hội nghị quốc tế quan trọng như Đại hội lần thứ V của Quốc tế cộng sản (1924), các Đại hội của Quốc tế thanh niên, Quốc tế phụ nữ…

    + Tại Đại hội V Quốc tế cộng sản (7/1924). Người đã trình bày lập trường quan điểm của mình về vị trí chiến lược cách mạng các nước thuộc địa, mối quan hệ giữa cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách mạng vô sản chính quốc, về vai trò và sức mạnh to lớn của giai cấp nông dân ở các nước thuộc địa…

    c. Thời kỳ ở Trung Quốc (1924 – 1928)

    + Tháng 11/1924 Nguyễn Ái Quốc từ Liên Xô về Quảng Châu (Trung Quốc) để tập hợp những người yêu nước của Việt Nam, truyền bá, giáo dục cho họ chủ nghĩa Mac – Lênin.

    + Tháng 2/1925, Người thành lập nhóm cộng sản đoàn. Trên cơ sở ấy tháng 6/1925, Người thành lập “Hội Việt Nam Thanh niên cách mạng”. Người lập báo “Thanh niên” (21/6/1925) để truyền bá chủ nghĩa Mac – Lênin về nước.

    + Tháng 7/1925, Người tham gia sáng lập “Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông” để xây dựng tình đoàn kết giữa cách mạng các nước trong khu vực.

    + Từ 1924 đến 1927, tại Quảng Châu, Người đã mở nhiều lớp huấn luyện ngắn ngày được đào tạo được 75 cán bộ cho cách mạng Việt Nam. Sau đó một số cán bộ được cử đi học tập ở Liên Xô, Một số học ở trường quân sự Hoàng Phố của Trung Quốc, còn lại được đưa về nước để hoạt động cách mạng.

    + Năm 1928, Người phát động phong trào “Vô sản hoá” đưa các cán bộ đã đào tạo về nước hoạt động cách mạng.

    Những bài giảng của Người sau này tập hợp trong cuốn “Đường Cách mệnh” (xuất bản lần đầu vào năm 1927). Những quan điểm cứu nước là:

    – Chủ nghĩa đế quốc là kẻ thù chung của giai cấp vô sản và nhân dân các thuộc địa. Chỉ có làm cách mạng đánh đổ chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc thì mới giải phóng được giai cấp vô sản và nhân dân các thuộc địa. Do đó cách mạng chính quốc và cách mạng thuộc địa của mối quan hệ gắn bó với nhau.

    – Lực lượng cách mạng chủ yếu để đánh đổ ách thống trị của đế quốc là công nhân và nông dân.

    – Giai cấp công nhân có đủ khả năng lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiên phong của mình là Đảng cộng sản theo chủ nghĩa Mác – Lênin.

    – Giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
    Báo Thanh niên và sách Đường cách mệnh đã vũ trang lý luận cách mạng cho cán bộ của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội, tuyên truyền vào giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân Việt Nam, kết nạp hội viên, thành lập tổ chức cơ sở của hội.

    d. Sáng lập Đảng cộng sản Việt Nam

    + Phong trào công nhân và phong trào yêu nước lên cao đòi hỏi phải thành lập Đảng cộng sản để đủ sức lãnh đạo cuộc đấu tranh. Từ đó dẫn đến sự phá sản các tổ chức “Thanh niên” và “Tân Việt” để thành lập 3 tổ chức cộng sản: Đông Dương Cộng sản Đảng (6/1929); An Nam Cộng sản Đảng (7/1929) và Đông Dương Cộng sản liên đoàn (9/1929).

    + Đến cuối năm 1929, ở Việt Nam có ba tổ chức cộng sản, hoạt động riêng rẽ và còn công kích lẫn nhau. Tình hình đó càng kéo dài, càng bất lợi cho cách mạng. Yêu cầu khách quan đòi hỏi các tổ chức cộng sản phải hợp nhất mới đủ sức lãnh đạo cách mạng.

    + Được sự uỷ nhiệm của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc triệu tập hội nghị gồm đại biểu các tổ chức cộng sản trong nước để bàn về việc hợp nhất thành một Đảng. Hội nghị diễn ra từ ngày mồng 3 đến ngày 7/02/1930 tại Cửu Long thuộc Hương Cảng – Trung Quốc, do Nguyễn ái Quốc chủ trì. Ngày 3/02/1930, Đảng đã ra đời, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong hội nghị này Nguyễn ái Quốc còn thảo ra những văn kiện quan trọng, được hội nghị thông qua: “Chính cương vắn tắt”, và “Sách lược vắn tắt”, “Điều lệ vắn tắt”, “Chương trình hành động vắn tắt”. Tuy còn sơ sài, song là những văn kiện vạch ra những nét cơ bản nhất về đường lối chiến lược và sách lược cho cách mạng Việt Nam.

    Bình luận
  2. Nguyễn Ái Quốc là người đầu tiên gieo hạt giống Mác – Lênin trên đất nước Việt Nam, làm cho cách mạng Việt Nam nở hoa kết quả. Người đã sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam và dày công đào tạo cho Đảng ta một đội ngũ cán bộ ưu tú, chăm lo xây dựng Đảng ta thành một khối đoàn kết, thống nhất, vững mạnh.

    Bến cảng Nhà rồng – nơi Bác Hồ rời Tổ quốc ra đi tìm đường cứu nước. Ảnh tư liệu
    Từ khi còn ít tuổi, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã đau xót trước cảnh đồng bào sống dưới ách áp bức, bóc lột của thực dân và phong kiến. Trước hoàn cảnh nước mất, nhà tan, nhân dân lầm than, đói rét, với khát vọng giải phóng dân tộc, ngày 05/6/1911, Người đã rời Bến cảng Nhà Rồng, thành phố Sài Gòn – Gia Định sang phương Tây để học tập kinh nghiệm cách mạng để “về giúp đồng bào”.
     
    Nguyễn Ái Quốc ở Pháp năm 1920
     Suốt nhiều năm bôn ba, Người đã đặt chân đến nhiều nước, tiếp xúc với nhiều lớp người, thuộc nhiều dân tộc khác nhau. Hướng đi của Người trước hết là sang Pháp, Mỹ, Anh và nhiều nước thuộc địa của đế quốc, thực dân. Cuộc tìm kiếm lịch sử và cuộc hành trình ra thế giới đã mở rộng nhận thức của Người về vấn đề dân tộc và con người. Người đã thấy không chỉ dân tộc mình mất tự do mà nhiều dân tộc khác cũng “cùng chịu chung một nỗi đau khổ: sự bạo ngược của của chế độ thực dân”(1) và không chỉ đồng bào mình bị đối xử như nô lệ mà nhân dân lao động các nước khác không kể chủng tộc, màu da hay quốc tịch cũng “đều là nạn nhân của một kẻ sát nhân: chủ nghĩa tư bản đế quốc”(2), Người nhận xét: “Vậy là dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột, mà cũng chỉ có mỗi một tình hữu ái là thật mà thôi: Tình hữu ái vô sản”(3). Có thể nói, nhận thức đó đã bổ sung thêm tiêu chuẩn cho Người trong sự lựa chọn con đường cách mạng Việt Nam, con đường đó phải giải quyết vấn đề dân tộc và con người không chỉ cho dân tộc và con người Việt Nam mà cho tất cả các dân tộc bị áp bức và nhân dân lao động bóc lột trên toàn thế giới.
     Cách mạng Tháng Mười Nga thành công năm 1917.
    Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, đây là sự kiện rung chuyển thế giới, đánh dấu bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử loại người. Cuộc cách mạng này đưa học thuyết của C.Mác từ sách vở trở thành hiện thực đầu tiên, đưa cách mạng thế giới bước sang thời đại mới, thời đại quá độ từ Chủ nghĩa tư bản lên Chủ nghĩa xã hội. Cùng thời điểm đó, Người từ nước Anh trở lại nước Pháp và tham gia các hoạt động chính trị. Với hành trang chủ nghĩa yêu nước – nhân văn truyền thống và với những nhận thức mới về dân tộc và con người, đầu năm 1919, Nguyễn Ái Quốc tham gia Đảng Xã hội Pháp, một chính đảng tiến bộ nhất lúc đó ở Pháp. Tháng 6/1919, các nước thắng trận họp Hội nghị hòa bình ở Vécxây (Pháp), Nguyễn Ái Quốc đã thay mặt Hội những người Việt Nam yêu nước ở Pháp gửi tới Hội nghị Vécxây bản yêu sách của những người An Nam, bản yêu sách gồm 8 điểm, đòi Chính phủ Pháp thừa nhận các quyền tự do, dân chủ, quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam, đây là lần đầu tiên những quyền lợi cơ bản, chính đáng, thiết thực của nhân dân Việt Nam được nêu ra trong diễn đàn quốc tế. Tuy nhiên, bản yêu sách không được chấp nhận, Nguyễn Ái Quốc hiểu rõ ““chủ nghĩa Uynxơn” chỉ là một trò bịp bợm lớn”. Từ thực tiễn đó, Người càng khẳng định ý tưởng phải giải quyết vấn đề dân tộc và con người theo một học thuyết khoa học – cách mạng khác học thuyết tư sản và bằng một con đường cách mạng triệt để. Trong quá trình hoạt động, tư tưởng và lý luận của Người đã hướng đến sự thành công của Cách mạng Tháng Mười Nga và Chủ nghĩa Mác Lênin.
     
       Nguyễn Ái Quốc tại Đại hội toàn quốc Đảng Xã hội Pháp được tổ chức ở
                                thành phố Tua (nước Pháp), tháng 12/1920. 

     Tháng 7/1920, tại thủ đô Pa-ri nước Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã được đọc bản “Sơ thảo luần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin đăng trên báo L’Humanite (Nhân đạo), số ra ngày 16 và 17/7/1920, Người đã đọc đi đọc lại nhiều lần và qua lăng kính chủ nghĩa yêu nước chân chính, Người tìm thấy ở đó con đường đúng đắn giải phóng đất nước khỏi ách đô hộ của thực dân sau gần mười năm tìm kiếm. Để nói lên niềm vui và hạnh phúc của Bác khi bắt gặp Luận cương của Lênin, trong bài thơ “Người đi tìm hình của nước” nhà thơ Chế Lan Viên đã viết “…Bác reo lên một mình như nói cùng dân tộc: Cơm áo là đây! Hạnh phúc đây rồi!”. Bằng trí tuệ thiên tài và quá trình hoạt động cách mạng của Người, vượt qua sự hạn chế trong chủ nghĩa yêu nước của các sĩ phu và của các nhà cách mạng có xu hướng tư sản đương thời, Người đã đến với Chủ nghĩa Mác – Lênin và đi vào con đường cách mạng vô sản. Người xác định thái độ ủng hộ việc gia nhập Quốc tế Cộng sản tại Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp (12/1920), tại Đại hội, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế thứ ba (Quốc tế Cộng sản do V.I.Lênin thành lập). Đây là sự kiện Nguyễn Ái Quốc trở thành một trong những người sáng lập của Đảng Cộng sản Pháp và là người cộng sản đầu tiên của Việt Nam, đánh dấu bước chuyển biến quyết định trong tư tưởng và lập trường chính trị của Nguyễn Ái Quốc, từ lập trường yêu nước chuyển sang lập trường cộng sản. Từ một người yêu nước chân chính, Người đã trở thành một chiến sĩ cộng sản lỗi lạc, những năm hoạt động trong phong trào cộng sản, phong trào công nhân và phong trào giải phóng dân tộc, tiếp tục nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin, học tập kinh nghiệm của Đảng Cộng sản, kinh nghiệm của Liên Xô – quê hương Cách mạng tháng Mười, Người đã tích lũy được những kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn phong phú, và hình thành dần dần đường lối cứu nước. Người đi đến khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Công lao vĩ đại đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc là đã gắn phong trào cách mạng Việt Nam với phong trào công nhân quốc tế, đưa nhân dân Việt Nam đi theo con đường chính Người đã trải qua, từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác – Lênin”. Được chủ nghĩa Mác – Lênin soi sáng, Nguyễn Ái Quốc “vụt lớn lên, ngang tầm sứ mệnh của con người làm ra lịch sử”(4).
     Nguyễn Ái Quốc và Báo Le Paria (Người cùng khổ). Trong những năm hoạt động ở nước ngoài, tâm hồn và nghị lực của Nguyễn Ái Quốc luôn hướng về Tổ quốc Việt Nam, luôn ở bên cạnh đồng bào. Tên đồng chí Nguyễn Ái Quốc, tờ báo “Người cùng khổ” và cuốn sách “Bản án chế độ thực dân Pháp” nhắc lại thời kỳ hoạt động cách mạng rất có ý nghĩa của Người. Người tranh thủ mọi cơ hội và vận dụng mọi khả năng, mọi hình thức để dìu dắt phong trào cách mạng trong nước, để động viên và cổ vũ các tầng lớp nhân dân, nhất là công nhân, nông dân và thanh niên, đứng lên đấu tranh; mặt khác Người tích cực tố cáo, lên án bản chất bóc lột của chủ nghĩa thực dân đối với nhân dân thuộc địa và kêu gọi, thức tỉnh nhân dân bị áp bức đấu tranh giải phóng. Người tiếp tục học tập để bổ sung hoàn thiện tư tưởng cứu nước, đồng thời tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin về Việt Nam nhằm chuẩn bị các tiền đề về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự ra đời chính đảng tiên phong ở Việt Nam. Chủ nghĩa Mác – Lênin đến với nhân dân Việt Nam như đến với “người đi đường đang khát mà có nước uống, đang đói mà có cơm ăn”, chủ nghĩa Mác – Lênin lôi cuốn những người yêu nước Việt Nam đi vào con đường cách mạng vô sản và làm dấy lên khắp trong nước một làn sóng dân tộc và dân chủ mạnh mẽ, trong đó giai cấp công nhân đã trở thành một lực lượng chính trị độc lập. Sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng cách mạng mang tính thời đại của Nguyễn Ái Quốc, với phong trào đấu tranh quyết liệt của giai cấp công nhân liên minh chặt chẽ với giai cấp nông dân, cùng với phong trào yêu nước của một dân tộc đang sục sôi cách mạng đã dẫn đến việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
     Ký họa Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, tháng 2-1930.(Nguồn ảnh: baoapbac.vn)
    Mùa Xuân năm 1930, theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, ngày 03/02/1930 Người đã chủ trì Hội nghị thống nhất ba tổ chức cộng sản ở Đông dương thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Các văn kiện của Hội nghị thành lập Đảng do Người trực tiếp soạn thảo như: Chánh cương vắn tắt; Sách lược vắn tắt; Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam, đây là kết quả của sự vận dụng sáng tạo lý luận Mác – Lênin, đường lối của Quốc tế Cộng sản vào điều kiện cụ thể của nước ta, trở thành Cương lĩnh đầu tiên của Đảng ta. Đó là “Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Đường lối ấy gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, gắn chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế chân chính, gắn cách mạng Việt Nam với trào lưu cách mạng vô sản. Đường lối cách mạng Việt Nam đã cơ bản được hình thành, con đường cứu nước của Việt Nam đã được Người vạch ra, sự đúng đắn ngay từ đầu của Nguyễn Ái Quốc đã được quá trình cách mạng khảo nghiệm và khẳng định. Từ đó, cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, mở ra thời đại mới, thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử của dân tộc Việt Nam.

    xin lỗi hơidài

    Bình luận

Viết một bình luận