Tương phản ở dân: hàng trăm nghìn con người từ chiều đến giờ hết sức giữ gìn, kể thì thuổng, người thì cuốc, kể đội đất, kể vác tre, nào đắp, nào cừ, bì bõm dưới bùm lầy ngập quá khuỷu chân, người nào người nấy ướt như chuột lột. Tiếng người xao xác gọi nhau sang hộ, nhưng xem chừng ai cũng mệt lử cả rồi. Trăm nghìn lo sợ, đem thân hèn yếu mà đối với sức mưa to lớn. Dân phu rối rít. Trăm họ đang vất vả lấm láp, gội gió tắm mưa, như đàn sâu lũ kiến ở trên, đê. Vừa lúc đó thì có tiếng kêu ầm ĩ, càng nghe càng lớn. Ào ào như thác chảy xiếc; rồi lại có tiếng gà, chó, trâu, bò kêu vang tứ phía. Một người nhà quê, mình mẩy lấm láp, quần áo ướt đầm, tất tả xông vào thở không ra lời. Tương phản về quan: đèn thắp sáng trưng; nha lệ lính tráng, kể hầu người hạ, đi lại rộn ràng. Uy nghi chễm chện ngồi. Tay trái dựa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra, để cho tên người nhà quỳ ở dưới đất mà gãi. Một tên lính lệ đứng bên, cầm cái quạt lông, chốc chốc sẽ phẩy. Đứng khoanh tay, chực hầu điếu đóm. Bát hấp đường phèn. Khói bay nghi nghút. Hai bên nào ống thuốc bạc, nào đồng hồ vàng, nào dao chuôi ngà, nào ống vôi chạm, ngoái tai, ví thuốc, quản bút, tăm bông. Khi đó ván bài quan đã chờ rồi. Ngày xơi bát yếm vừa xong, ngồi khểnh vuốt râu, rung đùi, mắt đang mải trong đĩa nọc, bỗng nghe ngoài xa, tiếng kêu vang trời dậy đất. Mọi người đều giật nảy mình, duy quan vẫn điềm nhiên, chỉ lăm le chực người ta bốc trúng quân mà hạ. Có người khẽ nói: _ Bẩm, dễ có khi đê vỡ!. Ngài cau mặt, gắt rằng: _ Mặc kệ !. Ý nghĩa của tương phản: làm nổi bật rõ tính cách bất nhân của quần và tình cảm thương của người dân.
Nghệ thuật tương phản:
+viên quan phụ mẫu đi hộ đê nhưng ngồi ở trong đình và chơi bài ù tôm
+còn người dân quần áo ướt đẫm đi hộ đê không vỡ
+sức trời mạnh hơn sức người
Tương phản ở dân: hàng trăm nghìn con người từ chiều đến giờ hết sức giữ gìn, kể thì thuổng, người thì cuốc, kể đội đất, kể vác tre, nào đắp, nào cừ, bì bõm dưới bùm lầy ngập quá khuỷu chân, người nào người nấy ướt như chuột lột. Tiếng người xao xác gọi nhau sang hộ, nhưng xem chừng ai cũng mệt lử cả rồi. Trăm nghìn lo sợ, đem thân hèn yếu mà đối với sức mưa to lớn. Dân phu rối rít. Trăm họ đang vất vả lấm láp, gội gió tắm mưa, như đàn sâu lũ kiến ở trên, đê. Vừa lúc đó thì có tiếng kêu ầm ĩ, càng nghe càng lớn. Ào ào như thác chảy xiếc; rồi lại có tiếng gà, chó, trâu, bò kêu vang tứ phía. Một người nhà quê, mình mẩy lấm láp, quần áo ướt đầm, tất tả xông vào thở không ra lời. Tương phản về quan: đèn thắp sáng trưng; nha lệ lính tráng, kể hầu người hạ, đi lại rộn ràng. Uy nghi chễm chện ngồi. Tay trái dựa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra, để cho tên người nhà quỳ ở dưới đất mà gãi. Một tên lính lệ đứng bên, cầm cái quạt lông, chốc chốc sẽ phẩy. Đứng khoanh tay, chực hầu điếu đóm. Bát hấp đường phèn. Khói bay nghi nghút. Hai bên nào ống thuốc bạc, nào đồng hồ vàng, nào dao chuôi ngà, nào ống vôi chạm, ngoái tai, ví thuốc, quản bút, tăm bông. Khi đó ván bài quan đã chờ rồi. Ngày xơi bát yếm vừa xong, ngồi khểnh vuốt râu, rung đùi, mắt đang mải trong đĩa nọc, bỗng nghe ngoài xa, tiếng kêu vang trời dậy đất. Mọi người đều giật nảy mình, duy quan vẫn điềm nhiên, chỉ lăm le chực người ta bốc trúng quân mà hạ. Có người khẽ nói: _ Bẩm, dễ có khi đê vỡ!. Ngài cau mặt, gắt rằng: _ Mặc kệ !. Ý nghĩa của tương phản: làm nổi bật rõ tính cách bất nhân của quần và tình cảm thương của người dân.