Nhận xét vai trò của Thoại Ngọc Hầu đối với quê hương An Giang
0 bình luận về “Nhận xét vai trò của Thoại Ngọc Hầu đối với quê hương An Giang”
Ở Cao Miên được ba năm, Thoại Ngọc Hầu được triệu về Huế (1816), rồi nhận chức trấn thủ trấn Vĩnh Thanh (1817). Cũng trong năm này, ông cho lập 5 làng trên cù lao Dài.
Ở trấn Vĩnh Thanh, ông sốt sắng lo việc khẩn hoang lập ấp, đào kinh đắp đường, phát triển và bảo vệ vùng đất mới. Các công trình lớn của ông còn để lại cho đời sau là:
Kênh Thoại Hà: khởi đào vào năm 1818, dài hơn 30 km, nối rạch Đông Xuyên (Long Xuyên) với ngọn Giá Khê (Rạch Giá). Đào xong được vua Gia Long đã cho phép lấy tên ông để đặt cho tên núi (Thoại Sơn) và tên kênh (Thoại Hà).
Kênh Vĩnh Tế: đào theo biên giới Tây Nam nối liền Châu Đốc-Hà Tiên (tức nối sông Châu Đốc ra vịnh Thái Lan). Kênh dài hơn 87 km, huy động hàng vạn nhân công thực hiện từ năm 1819-1824 (có hoãn đào 4 lần). Con kênh được đặt tên theo tên vợ chính của ông, phu nhân Châu Thị Tế.
Năm 1823, ông cho lập 5 làng trên bờ kênh Vĩnh Tế là Vĩnh Ngươn, Vĩnh Tế, Vĩnh Điều, Vĩnh Gia và Vĩnh Thông[5]. Liên quan đến việc mộ dân lập làng của ông, sử nhà Nguyễn có đoạn chép: “Án thủ Châu Đốc là Thống chế Nguyễn Văn Thụy trước mộ dân dời đến ở đất biên thùy, đặt ra 20 xã thôn, vay của công 1.900 quan tiền và 1.500 phương gạo cho dân, đã hoãn nhiều năm, dân vẫn chưa trả được. Đến nay Thụy đem của nhà trả bù cho dân”[6].
Năm 1825, ông cho đắp con đường từ Châu Đốc lên Lò Gò (tức thị trấn Angkor Borei ngày nay) – Sóc Vinh nối các làng với nhau rất tiện lợi trong việc đi lại cho nhân dân.[7]
Lộ Núi Sam-Châu Đốc, dài 5 km, làm từ năm 1826 đến 1827, huy động gần 4.500 nhân công. Làm xong, ông cho khắc bia “Châu Đốc Tân Lộ Kiều Lương” dựng tại núi Sam năm 1828 để kỷ niệm. Ngày nay, tấm bia không còn, nhưng còn văn bia trong sử sách.
Những công trình trên được xem là cơ sở để người Việt đặt chủ quyền lâu dài trên vùng đất mới này.
Ngoài các công trình trên, ông còn làm được nhiều việc khác trước khi mất như:
Năm 1820: đánh dẹp được cuộc nổi dậy của Sãi Kế. Sãi Kế là người Khmer không rõ tung tích đã làm cuộc nổi dậy chống lại nhà Nguyễn. Quan quân chống không nổi. Khi thế lực lớn dần, Sãi Kế tự xưng là Chiêu Vương, dẫn thuộc hạ đi đánh phá nhiều nơi trong trấn Phiên An (Gia Định), và quấy nhiễu cả đất Cao Miên. Tổng trấn Gia Định Thành lúc bấy giờ là Lê Văn Duyệt, liền sai Huỳnh Công Lý, sau lại cử thêm Nguyễn Văn Tri, Nguyễn Văn Thoại mới đánh dẹp được. Sãi Kế bị chém chết tại trận[8].
Năm 1821, ông giữ chức Thống Chế bảo hộ Cao Miên, kiêm Án thủ Châu Đốc đồn, kiêm quản trấn Hà Tiên. Ghi nhớ công lao bảo hộ của ông, tháng 4 âm năm 1824, Nặc Ông Chân (Ang Chan II), hiến tặng nhà Nguyễn thông qua Nguyễn Văn Thoại (để trả ơn Thoại), 3 vùng Chân Sum (còn gọi là Chân Thành hay Chân Chiêm, nằm giữa Giang Thành và Châu Đốc), Mật Luật (Ngọc Luật, cũng nằm giữa Giang Thành và Châu Đốc), Lợi Kha Bát (Prey Kabbas tỉnh Takeo). Nhà Nguyễn chỉ lấy 2 đất Chân Sum và Mật Luật (Mật Luật sau thành đất huyện Tây Xuyên). Chân Sum sau được phân vào hai huyện Hà Âm và Hà Dương từng thuộc phủ Tĩnh Biên tỉnh Hà Tiên, trước khi chia về cho tỉnh An Giang.
Năm 1827: Lập đội quân Châu Đốc để phòng giữ Châu Đốc, lập đội quân An Hải để phòng giữ Hà Tiên. Cũng trong năm này, ông đã có chuyến về thăm quê hương là làng An Hải. Trong những ngày ở quê, ông đã cho lập lại chợ An Hải, đồng thời phụng cúng tiền của để xây dựng đình, chùa của làng. Đi ghi nhớ công lao, dân làng đã tôn vinh ông là hậu hiền [9].
Tháng 9 năm 1828: Dựng bia Vĩnh Tế sơn, còn gọi là bia “Thừa Đế lịnh tế cô hồn Vĩnh Tế tân kinh”, bài văn khắc 730 chữ, nội dung tế cô hồn những dân, binh chết do đào kênh., cho thu nhặt và cải táng hài cốt của sưu dân đã mất trong khi đào kênh Vĩnh Tế…
Thoại Ngọc Hầu (1761-1829) là một danh tướng của triều Nguyễn. Ông là ng trung thực , cần mẫn,chủ trưng thực hện việc đào kênh,đắp mộ,khai hoang lập làng ,bảo vệ biên giới với nhiều công trình có lợi cho “quốc tế dân sinh” . Đối vs vùng đất An Giang ,Thoại Ngọc Hầu là người có công lớn đem lại sự trù phú cho vùng đất này như hôm nay.
Ở Cao Miên được ba năm, Thoại Ngọc Hầu được triệu về Huế (1816), rồi nhận chức trấn thủ trấn Vĩnh Thanh (1817). Cũng trong năm này, ông cho lập 5 làng trên cù lao Dài.
Ở trấn Vĩnh Thanh, ông sốt sắng lo việc khẩn hoang lập ấp, đào kinh đắp đường, phát triển và bảo vệ vùng đất mới. Các công trình lớn của ông còn để lại cho đời sau là:
Những công trình trên được xem là cơ sở để người Việt đặt chủ quyền lâu dài trên vùng đất mới này.
Ngoài các công trình trên, ông còn làm được nhiều việc khác trước khi mất như:
Thoại Ngọc Hầu (1761-1829) là một danh tướng của triều Nguyễn. Ông là ng trung thực , cần mẫn,chủ trưng thực hện việc đào kênh,đắp mộ,khai hoang lập làng ,bảo vệ biên giới với nhiều công trình có lợi cho “quốc tế dân sinh” . Đối vs vùng đất An Giang ,Thoại Ngọc Hầu là người có công lớn đem lại sự trù phú cho vùng đất này như hôm nay.