Nhập vai An Dương Vương kể lại chuyện Mị Châu – Trọng Thủy

Nhập vai An Dương Vương kể lại chuyện Mị Châu – Trọng Thủy

0 bình luận về “Nhập vai An Dương Vương kể lại chuyện Mị Châu – Trọng Thủy”

  1. Chuyện xảy ra đã lâu, nhưng mỗi khi nhắc tới, tôi lại không khỏi dằn vặt bản thân đã làm cơ đồ rơi vào tay giặc. Đến bây giờ, nỗi ăn năn, hối hận vẫn còn ám ảnh trong tôi.
    Trước đây, tôi vốn là vua của nước Âu Lạc thân yêu, tên họ Thục Phán. Tôi có xây thành ở đất Việt Thường, nhưng ngặt nỗi đắp tới đâu lại lở ra tới đó. Tôi buồn bã, tôi thất vọng tràn trề. Tôi lập đàn trai giới, cầu đảo bách thần, mong được sự giúp đỡ. Tôi luôn hi vọng có ai đó giúp tôi trong việc xây thành khó khăn này. Bất ngờ thay, ngày mồng bảy tháng ba, từ phương đông bỗng có một cụ già đến trước cửa thành mà than rằng: “Xây dựng thành này biết bao giờ cho xong được!”. Tôi mừng rỡ, đoán biết là người tài mà mình đang cần chiêu mộ. Tôi liền sai người đón vào điện, làm nghi lễ chào mừng và bày tỏ nỗi lòng mình. Tôi thành thực mà giãi bày: “Ta đắp thành này đã nhiều lần băng lở, tốn nhiều công sức mà không thành, thế là cớ làm sao?”. Nghe xong, có già chỉ đáp: “Sẽ có sứ Thanh Giang tới cùng nhà vua xây dựng thành mới thành công”. Cụ già nói xong rồi từ biệt ra về mà không kịp để tôi hỏi han thêm điều gì nữa.
    Cả tối đêm ấy, tôi trằn trọc, băn khoăn không ngủ được. Tôi suy nghĩ về lời cụ già đó nói. Hôm sau, tôi ra cửa đông sớm, ngóng đợi. Chợt tôi thấy có một con rùa Vàng từ phương đông lại, nổi trên mặt nước. Kì lạ là nó nói sõi tiếng người và tự xưng là sứ Thanh Giang, thông tỏ việc trời đất, âm dương, quỷ thần. Tôi mừng rỡ vì biết người mình cần đã xuất hiện. Đúng như lời cụ già đã báo cho tôi trước đó, sứ Thanh Giang nay đã xuất hiện rồi. Tôi lập tức chuẩn bị nghi lễ, dùng xe vàng rước vào trong thành.
    Thành xây nhanh hơn tôi nghĩ. Trong vòng nửa tháng, thành đã hoàn thành xong. Thành nhìn đẹp lắm. Tôi vẫn nhớ thành đó rộng hơn ngàn trượng, xoắn như hình trôn ốc, cho nên gọi là Loa Thành hay còn gọi là Quỷ Long Thành. Tôi mừng rỡ khi thành được xây dựng xong. Tôi cũng phần nào an tâm vì sự bình yên cho dân làng. Rùa Vàng ở lại với chúng tôi ba năm rồi từ biệt ra về. Lúc tiễn đưa, tôi đã gửi lời cảm tạ: “Nhờ ơn của thần, thành đã xây được. Nay nếu có giặc ngoài thì lấy gì mà chống?”. Rùa Vàng liền đáp lại: “Vận nước suy thịnh, xã tắc an nguy đều do mệnh trời, con người có thể tu đức mà kéo dài thời vận. Nhà vua ước muốn ta có tiếc chi”. Nói xong, Rùa Vàng bèn tháo vuốt đưa cho tôi và nói: “Đem vật này làm lẫy nó, nhằm quân giặc mà bắn thì sẽ không lo gì nữa”. Dứt lời, Rùa Vàng trở về biển Đông.
    Tôi nhanh chóng sai Cao Lỗ làm nỏ, lấy vuốt rùa làm lẫy. Tôi gọi nỏ là “Linh quang Kim Quy thần cơ”. Chẳng bao lâu sau, như sự lo lắng của tôi, nước có giặc tràn vào. Triệu Đà đem quân đến giao chiến, hòng thâu tóm thành. Tôi bèn lấy nỏ thần ra bắn, trăm phát trăm trúng, quân Đà thua thảm, bèn rút quân về Trâu Sơn đắp lũy không dám đối chiến, viết thư xin cầu hòa.
    Cuộc sống dân chúng từ đó được yên ổn, xã tắc bình an. Tôi vốn có một cô con gái xinh đẹp, nết na tên là Mị Châu đương độ tuổi kén chồng. Lúc ấy, Đà sang cầu hôn. Tôi vô tình đồng ý mà không mảy may nghĩ tới mối thù xưa. Tôi cứ nghĩ cuộc hôn nhân này là môn đăng hộ đối, là vừa lứa xứng đôi, các con sẽ trăm năm hạnh phúc. Nhưng tôi đã lầm. Đây chỉ là một kế của Đà hòng cướp đoạt nỏ thần của tôi. Vậy mà khi ấy, tôi chẳng hề để ý. Mị Châu là đứa con gái ngoan ngoãn, là một người vợ hiền hết mực thương chồng. Trong một lần Mị Châu cho Trọng Thủy xem trộm nỏ thần, Trọng Thủy đã tráo nỏ thần đem về phương Bắc, lấy lí do thăm cha. Lúc ấy, tôi vẫn không hề biết rằng nỏ thần đã bị cô con gái thân yêu của mình vô ý trao tay giặc.
    Không bao lâu sau ngày Trọng Thủy về phương Bắc, Triệu Đà đem quân sang đánh. Tôi cũng không ngờ Đà vẫn còn nặng thù với việc thua ngày xưa. Nhưng tôi đã có nỏ thần trong tay, tôi ung dung, thản nhiên ngồi đánh cờ. Tôi mặc kệ Đà đánh chiếm ra sao. Chỉ khi Đà cho quân tiến sát vào, tôi mới đem nỏ thần ra đánh. Nhưng… nỏ thần đâu? Kia chỉ là cái nỏ rất bình thường. Tôi hoảng loạn khi nỏ thần bị đánh cắp. Tôi cùng con gái bỏ chạy về phía phương Nam. Tôi và Mị Châu cứ chạy, Mị Châu cứ lặng lẽ rải lông ngỗng trên đường mà tôi không hề biết. Chạy đến bờ biển, đường cùng, tôi bèn kêu lớn: “Trời hại ta, sứ Thanh Giang ở đâu mau mau lại cứu”. Rùa Vàng khi ấy mới hiện lên và nói: “Kẻ ngồi sau lưng chính là giặc đó”. Tôi quay qua Mị Châu, không khỏi sững sờ khi con gái mình chính là giặc, chính là kẻ đã đưa mình đến bước đường cùng. Chẳng nghĩ ngợi, đắn đo, tôi tuốt kiếm chém Mị Châu, máu chảy lênh láng. Tôi cầm sừng tê bảy tấc, Rùa Vàng rẽ nước dẫn tôi xuống biển.
    Tôi đang sống dưới hải cung, nhưng không khỏi thương tiếc về đất nước mình. Tôi đã lầm lỡ, đã quá tự tin, đã không hề cảnh giác với kẻ thù, để khi mọi chuyện lỡ rồi cũng không còn đường rút. Hi vọng mọi người đừng ai sơ ý giống tôi, cũng đừng ai mất cảng giác như tôi để chuyện xấu không xảy đến.

    Bình luận
  2. Ta là An Dương Vương, vị vua của nước Âu Lạc năm nào. Ngồi dưới thuỷ cung ngắm cá bơi lội, nghe tiên nữ hát ca mà lòng ta vẫn âu lo nỗi buồn. Nhớ năm xưa, chuyện ta dựng nước rồi làm mất nước mà đau đớn vô vàn và vô cùng hối hận.

         Năm đó, sau khi lên ngôi vua, ta bèn nghĩ việc xây thành. Nhưng khốn đốn thay, xây thành ở đất Việt Thường hễ đắp tới đâu lại lở tới đấy. Nghe nói vì đất nơi này còn vương vẩn những hồn ma của các vị tướng bại trận mà họ không cho ta thuận lợi đắp thành. Ta lập đàn trai giới, cầu đảo bách thần. Ngày mồng bảy tháng bảy ta bỗng thấy một cụ già từ phương Đông đứng trước cửa thành mà than rằng: “ Xây dựng thành này bao giờ cho xong được”. Ta thấy thế, mừng rỡ lắm, đón vào trong điện, thi lễ hỏi lý do đắp thành mãi không xong thì cụ già trả lời: “ Sẽ có xứ Thanh Giang tới cùng nhà vua xây dựng thành mới thành công”

         Nghe lời đó, ngày hôm sau ta đứng ngoài cửa đông chờ đợi, và bất ngờ thấy một con Rùa Vàng nổi lên mặt nước, nói sõi tiếng người, xưng là sứ Thanh Giang, ta mừng rỡ vội vã dùng xe nghênh đón, rước Rùa Vàng vào thành. Nhờ sự giúp đỡ của Rùa Vàng, thành sau nửa tháng thì xong. Ngắm nhìn thành mới mà lòng ta vui sướng. Thành rộng hơn ngàn trượng, xoắn ốc nên ta gọi nó là Loa Thành.

         Rùa Vàng ở với thành ta được ba năm rồi ra về. Trước khi đi, ta bày tỏ lòng thành kính cảm tạ và hỏi thần nếu giặc đến, làm thế nào giữ nước. Rùa Vàng nghe hỏi rồi tháo vuốt đưa ta, dặn: “ Đem vật này làm lẫy nỏ, nhằm quân giặc mà bắn thì không lo gì nữa”

         Nghe lời thần, ta đưa Cao Lỗ làm nỏ, lấy vuốt rùa làm lẫy và đặt tên là “ Linh quang Kim Quy thần cơ”. Thời gian sau, quân Triệu Đà cử binh xâm lược nước ta, ta lấy nỏ thần ra bắn, làm quân giặc khiếp sợ và thua trận, chạy về Trâu Sơn đắp luỹ và xin hoà.

         Không bao lâu sau, Đà cầu hôn. Ta gả con gái xinh đẹp Mị Châu cho con trai Đà là Trọng Thuỷ và để cho hắn ở lại cung. Nhưng đó quả thật là sai lầm. Ta không nghĩ đến rằng, con rể lại dụ dỗ Mị Châu ngây thơ cho xem nỏ thần rồi đánh tráo nỏ thần mang về phương Bắc.

         Có được nỏ thần, Triệu Đà mang quân đến đánh. Khi đó ta vẫn chưa biết chuyện, vẫn ung dung chơi cờ vì nỏ thần còn trong tay thì ta chẳng sợ gì. Nhưng éo le thay, khi ta biết nỏ kia không phải nỏ thần thì quá muộn, giặc đã tiến sát thành, ta phải cùng Mị Châu lên ngựa bỏ chạy về phương Nam.

         Nhưng càng chạy thì ta vẫn thấy giặc đuổi theo sau. Đến tới bờ biển, ta biết đó là đường cùng. Ta bèn kêu rằng : “ Trời hại ta, sứ Thanh Giang ở đâu mau mau lại cứu” Rùa Vàng từ dưới nước xuất hiện, thét lớn: “ Kẻ nào ngồi sau ngựa chính là giặc đó”. Ta bất ngờ quay lại nhìn thấy đường rải đầy lông ngỗng, trên tay con gái Mị Châu là áo lông ngỗng, ta hiểu ra chuyện và vô cùng tức giận. Ta tức giận vừa đau lòng mà tuốt kiếm chém Mị Châu. Mị Châu thấy vậy, bèn khấn với ta: “Thiếp là phận gái, nếu có lòng phản nghịch mưu hại cha, chết đi sẽ biến thành cát bụi. Nếu một lòng trung hiếu mà bị người lừa dối thì chết đi sẽ biến thành châu ngọc để rửa sạch mối nhục thù”. Dù đau lòng nhưng là một kẻ phản nghịch, tội đồ quốc gia ta không thể tha thứ với cương vị một người đứng đầu đất nước.

         Ta theo Rùa Vàng xuống biển. Mị Châu con ta chết ở bờ biển, máu chảy xuống nước, trai ăn vào tạo thành hạt châu. Trong Thuỷ đến đó, thấy con ta đã chết, ôm xác về táng ở Loa Thành, xác biến thành ngọc thạch. Con ta chết, Trọng Thuỷ cũng đau đớn, nhớ mong mà tự tử ở giếng. Nước giếng đó rửa ngọc ở biển Đông thì ngọc vô cùng sáng và đẹp

         Câu chuyện năm nào được nhân dân ta truyền nhau khiến ta càng day dứt không yên. Chỉ vì những phút giây thiếu cảnh giác mà ta làm mất nước. Đó là bài học xương máu, đau đớn dành cho ta. Và qua câu chuyện của của ta mong mọi người hãy cảnh giác trước kẻ thù.

    Bình luận

Viết một bình luận