Nội dung Hiệp định Giơ-ne-vơ: Tại sao nói cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta là chính nghĩa và có tính nhân dân
* Gợi ý tính nhân dân: Cuộc kháng chiến được nhân dân ủng hộ
mình cần gấp, ngắn gon xúc tích dùm mình nha !!!
UBND Tân PhúCỔNG LIÊN KẾT
CHUYÊN MỤC
KHỐI CHỨC NĂNG
PHƯỜNG TÂN SƠN NHÌ – QUẬN TÂN PHÚ
ĐẢNG BỘ
Cập nhật: 13:58, 23/7/2019 Lượt đọc: 3007
HIỆP ĐỊNH GIƠ-NE-VƠ NĂM 1954: MỘT THẮNG LỢI TRÊN CON ĐƯỜNG CỨU NƯỚC CỦA NHÂN DÂN TA
Cách đây 65 năm, ngày 21-7-1954, tại Giơ-ne-vơ (Thụy Sĩ), Hiệp định Giơ-ne-vơ về Đông Dương được ký kết, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến trường kỳ 9 năm của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược. Kết quả của Hiệp định Giơ-ne-vơ bắt nguồn từ nhiều nhân tố, trong đó có vai trò to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc chỉ đạo sâu sát, kịp thời quá trình đàm phán và ký kết.
Từ chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ…
Ngay từ khi thực dân Pháp có ý đồ quay lại xâm lược Đông Dương, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trương giải quyết bằng các biện pháp hòa bình để tránh đổ máu. Vì vậy, Việt Nam đã ký với Pháp Hiệp định Sơ bộ (ngày 06/3/1946) và Tạm ước Việt Nam – Pháp (ngày 14/9/1946). Thế nhưng, với bản chất hiếu chiến, thực dân Pháp đã cố tình tiến hành xâm lược, buộc nhân dân Việt Nam phải đứng lên cầm vũ khí bảo vệ chủ quyền dân tộc.
Cuộc kháng chiến cứu quốc của nhân dân Việt Nam không những không bị đè bẹp mà ngày càng lớn mạnh. Đến năm 1950, quân ta chuyển sang phản công địch trên khắp các chiến trường. Ngược lại, thực dân Pháp ngày càng thất bại, sa lầy và rơi vào thế lúng túng, bị động đối phó. Thấy rõ nguy cơ thất bại ở Đông Dương, thực dân Pháp muốn tìm cách thoát khỏi chiến tranh trong danh dự. Tuy nhiên, trước khi chịu ngồi vào bàn đàm phán, mùa hè năm 1953, thực dân Pháp được Mỹ tiếp sức đã đẩy mạnh quy mô và cường độ cuộc chiến tranh xâm lược bằng kế hoạch quân sự Na-va (Navarre), nhằm giành lại quyền chủ động trên chiến trường.
Trước tình hình đó, tháng 9/1953, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam họp ở Định Hóa (Thái Nguyên) thông qua kế hoạch tác chiến Đông Xuân năm 1953 – 1954, nhằm làm thất bại kế hoạch Na-va của địch. Trong khi thể hiện quyết tâm tiến công địch, làm thất bại kế hoạch Na-va của thực dân Pháp và kiên quyết kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng, Đảng, Chính phủ và nhân dân Việt Nam cũng tán thành thương lượng nhằm mục đích giải quyết hòa bình vấn đề Việt Nam. Ngày 26/11/1953, trả lời báo Expressen (Thụy Điển), Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Cuộc chiến tranh ở Việt Nam là do Chính phủ Pháp gây ra. Nhân dân Việt Nam phải cầm vũ khí anh dũng chiến đấu bảy, tám năm nay chống kẻ xâm lược chính để bảo vệ nền độc lập và quyền tự do được sống trong hòa bình. Hiện nay nếu thực dân Pháp tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lược thì nhân dân Việt Nam quyết tâm tiếp tục cuộc chiến tranh ái quốc đến thắng lợi cuối cùng. Nhưng nếu Chính phủ Pháp đã rút được bài học trong cuộc chiến tranh mấy năm nay, muốn đi đến đình chiến ở Việt Nam bằng cách thương lượng và giải quyết vấn đề Việt Nam theo lối hòa bình thì nhân dân và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng tiếp ý muốn đó”. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói rõ: “Cơ sở của việc đình chiến ở Việt Nam là Chính phủ Pháp thật thà tôn trọng nền độc lập thực sự của nước Việt Nam”.
Ngày 26/4/1954, Hội nghị Giơ-ne-vơ bắt đầu họp về vấn đề Triều Tiên. Thời gian diễn ra Hội nghị bàn về vấn đề Triều Tiên cũng là lúc quân đội viễn chinh Pháp ở lòng chảo Điện Biên Phủ đang nguy kịch trước sự tấn công mãnh liệt của các đơn vị Quân đội nhân dân Việt Nam. Sau khi các cứ điểm Him Lam, Độc Lập bị tiêu diệt, quân Pháp ở Bản Kéo buộc phải đầu hàng. Tại chiến trường, từ cuối tháng 3 đến cuối tháng 4/1954, hàng loạt cứ điểm ở khu phía Đông Mường Thanh bị tiêu diệt, quân Pháp lâm vào thế bị động, lúng túng. Từ ngày 01/5/1954, khu trung tâm của địch bắt đầu bị tiến công dồn dập. Chiều ngày 07/5/1954, Bộ chỉ huy quân đội Pháp ở tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ đầu hàng. Chiến dịch Điện Biên Phủ của nhân dân Việt Nam toàn thắng. Cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ kéo dài 9 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh kết thúc thắng lợi.
Ngay sau ngày chiến thắng, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen ngợi quân và dân ta, đồng thời nhắc nhở: “Thắng lợi tuy lớn nhưng mới chỉ là bước đầu. Chúng ta không nên vì thắng mà kiêu, không nên chủ quan khinh địch. Chúng ta kiên quyết kháng chiến để giành độc lập, thống nhất, dân chủ, hòa bình. Bất kỳ đấu tranh về quân sự hay ngoại giao cũng đều phải đấu tranh trường kỳ gian khổ mới đi đến thắng lợi hoàn toàn”.
Đến Hiệp định Giơ-ne-vơ:
Ngày 08/5/1954, một ngày sau khi tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ thất thủ, Hội nghị Giơ-ne-vơ về Đông Dương khai mạc. Với vị thế của một dân tộc chiến thắng, đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Phó Thủ tướng kiêm Quyền Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Văn Đồng làm Trưởng đoàn đã đến tham dự Hội nghị. Đây là lần đầu tiên nền ngoại giao Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ tham gia một hội nghị quốc tế lớn trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều diễn biến phức tạp.
Lúc này về phía Mỹ, dù là thành viên tham gia Hội nghị, nhưng Mỹ luôn vận động lập liên minh và dọa can thiệp quân sự trực tiếp nhằm phá Hội nghị, chuẩn bị điều kiện thuận lợi để nhảy vào Đông Dương, thế chân Pháp. Thấy rõ âm mưu phá hoại tiến trình đàm phán đi đến ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ, Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm khẳng định: “Chúng ta phải có tinh thần cảnh giác rất cao đối với âm mưu của đế quốc Mỹ định cản trở hai bên đi đến hiệp định đình chiến và mưu mô lập khối liên minh quân sự có tính chất xâm lược, chia châu Á thành những tập đoàn đối lập để dễ xâm lược và khống chế Đông Dương và Đông Nam Á”.
Cuộc đấu tranh tại Hội nghị Giơ-ne-vơ kéo dài hai tháng rưỡi mới đi đến kết quả cuối cùng. Trong quá trình đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Bộ Chính trị, Trung ương Đảng luôn theo dõi chặt chẽ và chỉ đạo sát sao quá trình đàm phán của đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Hội nghị.
Hội nghị Giơ-ne-vơ diễn ra hết sức phức tạp với sự đấu tranh quyết liệt của đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và sự dàn xếp của các nước lớn, nhất là xung quanh vấn đề phân vùng đóng quân, vấn đề tổng tuyển cử và thống nhất nước Việt Nam, vấn đề các lực lượng kháng chiến ở Lào và Cam-pu-chia… Trong điều kiện lịch sử cụ thể lúc đó, theo xu thế chung giải quyết các cuộc xung đột trên thế giới bằng thương lượng, đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chấp nhận ký Hiệp định Giơ-ne-vơ. Ngày 21/7/1954, các nước tham dự Hội nghị đã ra một bản Tuyên bố cuối cùng và ký các văn bản Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, Lào và Cam-pu-chia, tạo nên khung pháp lý của Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 về Đông Dương.
Tại phiên họp cuối cùng của Hội nghị, trong một tuyên bố riêng, Trưởng đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kêu gọi đồng bào: “Nhân dân Việt Nam! Đồng bào miền Nam! Thắng lợi thuộc về chúng ta! Độc lập và thống nhất Tổ quốc chúng ta là ở trong tay chúng ta. Những người yêu chuộng hòa bình và công lý trên toàn thế giới đều đồng tình với chúng ta. Đồng bào hãy nhớ lấy lời Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Cuộc đấu tranh phải gian khổ, nhưng cuối cùng chúng ta nhất định thắng”.
Cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta là chính nghĩa là vì đó là cuộc chiến tranh vệ quốc , toàn dân đứng lên đánh lại kẻ thù đã xâm chiếm nước ta , bắt dân ta làm nô lệ trong 80 năm. Cuộc kháng chiến đó có tính nhân dân là vì đó là cuộc kháng chiến đó của toàn dân,tất cả mọi người dân đều tham gia đánh giặc , đó là cuộc kháng chiến nhân dân .Điều này thể hiện rõ hơn trong thiện chí của ta (khi ký hiệp định sơ bộ và Tạm ước) nhượng cho chúng nhiều quyền lợi. Trong khi đó, chúng càng lấn tới lật lọng phá vỡ nền hòa bình chúng ta gây dựng.
Hoặc
– Cuộc kháng chiến của nhân dân ta mang tính chính nghĩa vì:
+ Nó là cuộc chiến tranh tự vệ, chống lại sự xâm lược của thực dân Pháp, hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc.
+ Từng bước thực hiện nhiệm vụ dân chủ, đem lại ruộng đất cho nhân dân.
– Cuộc kháng chiến của ta mang tính nhân dân vì:
+ Toàn dân ta tham gia kháng chiến, chủ yếu là lực lượng vũ trang của ba thứ quân đó là bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích.
+ Nó không chỉ diễn ra trên mặt trận quân sự mà cả trên các mặt trận chính trị, kinh tế, văn hóa, ngoại giao.
Hoặc
– Mang tính chính nghĩa : Đây là một cuộc kháng chiến ko phải xâm lược , hành động này chỉ mang tính tự vệ bảo vệ độc lập và chủ quyền
-Mang tính nhân dân : Vì cuộc kháng chiến này là cuộc kháng chiến của dân , do dân và vì dân ( toàn dân , toàn diện , trường kì , tự lực cánh sinh )
( Có 3 cách trả lời đó . Bạn thích cách nào cũng đc )
Học tốt !! :))