Phân tích 1 câu thơ tả cảnh ngụ tình trong đoạn trích ” kiều ở lầu Ngưng Bích”
0 bình luận về “Phân tích 1 câu thơ tả cảnh ngụ tình trong đoạn trích ” kiều ở lầu Ngưng Bích””
Tuyệt tác “Truyện Kiều” của đại thi hào Nguyễn Du thành công trước hết ở những đoạn thơ tả cảnh tả tình tuyệt bút, đó là những đoạn thơ “tả cảnh ngụ tình” . Trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích (Truyện Kiều), Nguyễn Du đã có tám câu thơ cuối rất tài hoa trong nghệ thuật tả cảnh ngụ tình. Mỗi cảnh vật như nói với ta một nỗi buồn khác nhau và nỗi buồn đó ngày càng mãnh liệt hơn, ghê gớm hơn:
“Buồn trông của bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầmầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”
Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình là mượn cảnh vật để gửi gắm (ngụ) tâm trạng. Cảnh được miêu tả không đơn thuần là bức tranh thiên nhiên mà còn là bức tranh tâm trạng. Cảnh là phương tiện miêu tả còn tình là đích của sự miêu tả. Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một trong những đoạn trích tiêu biểu cho nghệ thuật ấy, nhất là sự vận dụng thành công trong tám câu thơ cuối đoạn Trong sáu câu thơ đầu, khung cảnh thiên nhiên trước lầu Ngưng Bích với không gian, thời gian được nhìn qua con mắt của nhân vật, bộc lộ hoàn cảnh tâm trạng cô đơn, tội nghiệp của Thuý Kiều:
“Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bềbát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”…
Lầu Ngưng Bích nơi Kiều bị giam lỏng được gọi là nơi khoá xuân. Đó có nghĩa là nơi khoá giữ tuổi trẻ, ước mơ và hoài bão của đời thiếu nữ. Không gian nơi ấy mênh mông, chống chếnh làm sao: non xa, trăng gần, bốn bề bát ngát xa trông, … vẻ xa xôi, mênh mông của thiên nhiên càng tô đậm tình cảnh cô đơn, trơ trọi của Kiều. “Mây sớm đèn khuya” chỉ một mình nàng “bẽ bàng” vào ra hôm sớm. Hình ảnh trăng, mảỳ sớm đèn khuya biểu đạt sự quay vòng của thời gian. Cùng với những hình ảnh gợi tả không gian, sự tuần hoàn đều đặn của thời gian càng nhấn đậm thêm tình cảnh cô đơn, buồn bã của Kiều. Đúng là nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Bơ vơ nơi chân trời góc bể ấy, tấm lòng Kiều hướng cả về quê hương xứ sở cùng những người thân yêu nhất của mình.
“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ
Chân trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai
Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh biết ai đó giờ
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tửđã vừa người ôm”…
Trước hết, nàng nhớ tới Kim Trọng – mối tình đầu trong trẻo, say đắm của mình. Kiều tưởng tượng ra cảnh chàng Kim cũng đang nhớ về mình, mong ngóng mà vẫn bặt tin:
“Tưởng người dưới nguyệt chén đổng
Tin sương luống những rày trông mai chờ”…
Nghĩ đến đó, tâm trạng Kiều đau đớn, xót xa, tủi phận:
“Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”…
Nàng nhớ đến cha mẹ, thương cha mẹ ngày ngày tựa cửa ngóng tin con “xót người tựa cửa hôm mai”, ngậm ngùi vì tuổi già trước sự khắc nghiệt của thời gian Sân Lai cách mấy nắng mưa – Có khi gốc tử đã vừa người ôm”, day dứt vì mình không được ở bên để báo đáp công ơn sinh thành “quạt nồng ấp lạnh biết ai đó giờ”.
Nguyễn Du để Kiều nhớ tới Kim Trọng trước là hoàn toàn phù hợp với diễn biến tâm lí của nhân vật trong cảnh ngộ cụ thể, đảm bảo tính chân thực cho hình tượng. Trong tình cảnh bị Mã Giám Sinh làm nhục, lại ép tiếp khách làng chơi nên hiện trạng tâm lí Kiều là nỗi đau đớn về “tấm son gột rửa bao giờ cho phai”, là nỗi buồn nhớ người yêu, nuối tiếc mối tình đầu đẹp đẽ. Kiều đã hi sinh thân mình vì đạo hiếu, khi lâm vào tình cảnh đáng thương, nàng lại một lòng nhớ đến Kim Trọng, nhớ thương cha mẹ, quên cả cảnh ngộ của mình. Trong đoạn trích này, Kiều hiện ra với đức vị tha cao đẹp.
Càng nhớ người yêu, càng nhớ cha mẹ, Kiều càng đau xót cho số phận và hoàn cảnh buồn khổ của mình. Tâm trạng ấy của nàng tập trung vào tám câu thơ cuối đoạn trích. Tại dó, Nguyễn Du đã cho thấy một bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc sắc. Cảnh vật được miêu tả qua tâm trạng, tâm trạng nhuốm lên cảnh vật, cảnh vật thể hiện tâm trạng, sắc thái của bức tranh thiên nhiên thể hiện từng trạng thái tình cảm của Thuý Kiều.
“Buồn trông cửa bể chiểu hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa”…
Buổi chiều tà thường gợi nỗi nhớ về quê hương xứ sở. Ca dao từng có câu:
“Chiểu chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quêmẹ ruột đau chín chiều”.
Huống gì cảnh chiều hôm lại đứng trước biển trời bao la. Khung cảnh rợn ngợp ấy gọi nỗi cô đơn không gì khoả lấp. Kiều thấy cả những cánh buồm thấp thoáng “, những cánh buồm chợt ẩn, chợt hiện không rõ ràng phía chân trời chứng tỏ nàng đã ngóng trông đau đáu đến nhường nào. Trong những cánh buồm đi về nơi tổ ấm nơi xa kia, liệu có cánh buồm nào đưa Kiều về với quê mẹ của nàng?
Lại đây nữa, thêm cảnh là lại thêm buồn:
“Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu”
Nhìn cánh hoa rơi bị cuốn theo dòng nước, nàng nghĩ đến thân phận trôi dạt, vô định của mình, chẳng biết rồi mình sẽ đi đâu về đâu. Những động từ, tính từ trong câu thơ tất thảy đều gợi sự dạt trôi, vô định đến vô tình cúa tạo hoá: “sa”, “man mác”. Điều đó khiến cho không phải bản thân cánh hoa mà trong sự “trôi” của cánh hoa đã phảng phất nỗi buồn “man mác” tủi hờn. Nó cùng giống như những chuỗi ngày nhạt nhẽo vô vị Kiều phải giam mình nơi lầu xanh ô nhục và đơn độc này:
“Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”
“Rầu rầu” gợi dáng vẻ rũ xuống, lả đi. Nếu như “nội cỏ rầu rầu” thì cái sắc “xanh xanh” liền chân mây mặt đất kia hẳn không phải sắc xanh của tuổi trẻ, hi vọng và tình yêu. Nó là màu xanh cỏ úa héo hon rầu rĩ. Nó chẳng khác nào nỗi lòng đang tan ra vì buồn tủi của Thuý Kiều.
Đáng sợ hơn, nơi lầu Ngưng Bích bơ vơ tứ bể biển cả, Kiều còn mang một dự cảm hãi hùng về tương lai đầy sóng gió:
“Buồn trông gió cuốn mặt duyềnh,
Ầmầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”
“Gió cuốn mặt duềnh” để báo trước một đợt giông bão của biển cả và cũng là báo trước những giông bão của cuộc đời. Vậy là bi kịch của đời Kiều chưa dừng lại. Con Tạo còn muốn đánh ghen đến “dập liễu vùi hoa tơi bời” mới thoả. Nghe trong tiếng “ầm ầm” của sóng bể có tiếng bước chân của những bầy Khuyến Ưng hung hãn và vô nhân tính.
Từng chi tiết, hình ảnh khung cảnh thiên nhiên đều mang đậm trạng thái tình cảm của Thuý Kiều. Mỗi cảnh là mỗi tình, song tất cả đều buồn thương, đúng là: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Đặc biệt, cụm từ buồn trông lặp lại bốn lần trong tám câu thơ như những đợt sóng lòng trùng điệp, càng khiến nỗi buồn dằng dặc, mênh mông, kết hợp với cái nhìn từ xa đến gần, thu hẹp dần vào nội cảm con người để đến cuối đoạn thì tâm trạng cô đơn, sầu nhớ, cảm giác đau đớn trào lên. Sóng gió nổi lên như sự báo về những đau khổ ê chề rồi đây sẽ xảy ra đối với Kiều, là dự cảm cho một đoạn đời “thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần.”.
Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”(trích “Truyện Kiều”) đã thể hiện tâm trạng cô đơn, buồn nhớ và đặc biệt là những biến động dữ dội trong tâm trạng Thuý Kiều khi ở nơi “góc bể chân trời” bơ vơ, buồn tủi. Đoạn trích đã khẳng sự kì tài của Nguyễn Du trong việc miêu tả nội tâm nhân vật bằng bút pháp “tả cảnh ngụ tình” đặc sắc
Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là bức tranh tâm trạng của Thúy kiều ở lầu Ngưng Bích, đây là một trong những đoạn văn miêu trả tâm trạng thành công nhất của nhân vật Thúy Kiều. Tác giả Nguyễn Du đã rất thành công khi sử dụng bút pháp nghệ thuật tả cảnh ngụ tình để thể hiện tâm trạng của nhân vật Thúy Kiều. “Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung Bốn bề bát ngát xa trông Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia Bẽ bàng mây sớm đèn khuya Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng” Đoạn trích có nhịp điệu nhẹ nhàng, miên man mang nỗi buồn phảng phất từ lòng người lan truyền thấm vào cảnh vật, rồi từ cảnh vật rồi xoáy vào lòng người. Hầu như không dòng nào, câu nào, hình ảnh âm thanh nào trong đoạn trích không ít nhiều thể hiện tâm trạng nhân vật. Tâm trạng bẽ bàng, buồn nhớ, lo lắng… khi Kiều một mình trước lầu Ngưng Bích. “Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung Bốn bề bát ngát xa trông Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia” Bốn câu thơ trên là bức tranh thiên nhiên quanh lầu và cũng là bức tranh tâm trạng. Hoàn cảnh của kiều lúc này rất bung lung, bi thảm. Kiều được Tú bà cho ra ở lầu ngư bích nhưng thực chất là giam lỏng nàng. Nàng trơ trọi giữa không gian mênh mông, hoang vắng. Từ trên lầu cao Kiều ngóng vọng ra 4 phía bát ngát, dãy núi mờ xa những cồn cát vàng, trải dài chỉ có mảnh trăng gần ở chung. Những hình ảnh non xa, mà cũng có thể hình ảnh mang tính ước lệ để gợi sự mênh mông, hoang vắng, rộn ngợp không gian. Qua đó làm nổi bật hoàn cảnh tâm trạng bẽ bàng rộn nghợp của Kiều.
Tuyệt tác “Truyện Kiều” của đại thi hào Nguyễn Du thành công trước hết ở những đoạn thơ tả cảnh tả tình tuyệt bút, đó là những đoạn thơ “tả cảnh ngụ tình” . Trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích (Truyện Kiều), Nguyễn Du đã có tám câu thơ cuối rất tài hoa trong nghệ thuật tả cảnh ngụ tình. Mỗi cảnh vật như nói với ta một nỗi buồn khác nhau và nỗi buồn đó ngày càng mãnh liệt hơn, ghê gớm hơn:
“Buồn trông của bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”
Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình là mượn cảnh vật để gửi gắm (ngụ) tâm trạng. Cảnh được miêu tả không đơn thuần là bức tranh thiên nhiên mà còn là bức tranh tâm trạng. Cảnh là phương tiện miêu tả còn tình là đích của sự miêu tả. Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một trong những đoạn trích tiêu biểu cho nghệ thuật ấy, nhất là sự vận dụng thành công trong tám câu thơ cuối đoạn Trong sáu câu thơ đầu, khung cảnh thiên nhiên trước lầu Ngưng Bích với không gian, thời gian được nhìn qua con mắt của nhân vật, bộc lộ hoàn cảnh tâm trạng cô đơn, tội nghiệp của Thuý Kiều:
“Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”…
Lầu Ngưng Bích nơi Kiều bị giam lỏng được gọi là nơi khoá xuân. Đó có nghĩa là nơi khoá giữ tuổi trẻ, ước mơ và hoài bão của đời thiếu nữ. Không gian nơi ấy mênh mông, chống chếnh làm sao: non xa, trăng gần, bốn bề bát ngát xa trông, … vẻ xa xôi, mênh mông của thiên nhiên càng tô đậm tình cảnh cô đơn, trơ trọi của Kiều. “Mây sớm đèn khuya” chỉ một mình nàng “bẽ bàng” vào ra hôm sớm. Hình ảnh trăng, mảỳ sớm đèn khuya biểu đạt sự quay vòng của thời gian. Cùng với những hình ảnh gợi tả không gian, sự tuần hoàn đều đặn của thời gian càng nhấn đậm thêm tình cảnh cô đơn, buồn bã của Kiều. Đúng là nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Bơ vơ nơi chân trời góc bể ấy, tấm lòng Kiều hướng cả về quê hương xứ sở cùng những người thân yêu nhất của mình.
“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ
Chân trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai
Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh biết ai đó giờ
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm”…
Trước hết, nàng nhớ tới Kim Trọng – mối tình đầu trong trẻo, say đắm của mình. Kiều tưởng tượng ra cảnh chàng Kim cũng đang nhớ về mình, mong ngóng mà vẫn bặt tin:
“Tưởng người dưới nguyệt chén đổng
Tin sương luống những rày trông mai chờ”…
Nghĩ đến đó, tâm trạng Kiều đau đớn, xót xa, tủi phận:
“Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”…
Nàng nhớ đến cha mẹ, thương cha mẹ ngày ngày tựa cửa ngóng tin con “xót người tựa cửa hôm mai”, ngậm ngùi vì tuổi già trước sự khắc nghiệt của thời gian Sân Lai cách mấy nắng mưa – Có khi gốc tử đã vừa người ôm”, day dứt vì mình không được ở bên để báo đáp công ơn sinh thành “quạt nồng ấp lạnh biết ai đó giờ”.
Nguyễn Du để Kiều nhớ tới Kim Trọng trước là hoàn toàn phù hợp với diễn biến tâm lí của nhân vật trong cảnh ngộ cụ thể, đảm bảo tính chân thực cho hình tượng. Trong tình cảnh bị Mã Giám Sinh làm nhục, lại ép tiếp khách làng chơi nên hiện trạng tâm lí Kiều là nỗi đau đớn về “tấm son gột rửa bao giờ cho phai”, là nỗi buồn nhớ người yêu, nuối tiếc mối tình đầu đẹp đẽ. Kiều đã hi sinh thân mình vì đạo hiếu, khi lâm vào tình cảnh đáng thương, nàng lại một lòng nhớ đến Kim Trọng, nhớ thương cha mẹ, quên cả cảnh ngộ của mình. Trong đoạn trích này, Kiều hiện ra với đức vị tha cao đẹp.
Càng nhớ người yêu, càng nhớ cha mẹ, Kiều càng đau xót cho số phận và hoàn cảnh buồn khổ của mình. Tâm trạng ấy của nàng tập trung vào tám câu thơ cuối đoạn trích. Tại dó, Nguyễn Du đã cho thấy một bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc sắc. Cảnh vật được miêu tả qua tâm trạng, tâm trạng nhuốm lên cảnh vật, cảnh vật thể hiện tâm trạng, sắc thái của bức tranh thiên nhiên thể hiện từng trạng thái tình cảm của Thuý Kiều.
“Buồn trông cửa bể chiểu hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa”…
Buổi chiều tà thường gợi nỗi nhớ về quê hương xứ sở. Ca dao từng có câu:
“Chiểu chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều”.
Huống gì cảnh chiều hôm lại đứng trước biển trời bao la. Khung cảnh rợn ngợp ấy gọi nỗi cô đơn không gì khoả lấp. Kiều thấy cả những cánh buồm thấp thoáng “, những cánh buồm chợt ẩn, chợt hiện không rõ ràng phía chân trời chứng tỏ nàng đã ngóng trông đau đáu đến nhường nào. Trong những cánh buồm đi về nơi tổ ấm nơi xa kia, liệu có cánh buồm nào đưa Kiều về với quê mẹ của nàng?
Lại đây nữa, thêm cảnh là lại thêm buồn:
“Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu”
Nhìn cánh hoa rơi bị cuốn theo dòng nước, nàng nghĩ đến thân phận trôi dạt, vô định của mình, chẳng biết rồi mình sẽ đi đâu về đâu. Những động từ, tính từ trong câu thơ tất thảy đều gợi sự dạt trôi, vô định đến vô tình cúa tạo hoá: “sa”, “man mác”. Điều đó khiến cho không phải bản thân cánh hoa mà trong sự “trôi” của cánh hoa đã phảng phất nỗi buồn “man mác” tủi hờn. Nó cùng giống như những chuỗi ngày nhạt nhẽo vô vị Kiều phải giam mình nơi lầu xanh ô nhục và đơn độc này:
“Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”
“Rầu rầu” gợi dáng vẻ rũ xuống, lả đi. Nếu như “nội cỏ rầu rầu” thì cái sắc “xanh xanh” liền chân mây mặt đất kia hẳn không phải sắc xanh của tuổi trẻ, hi vọng và tình yêu. Nó là màu xanh cỏ úa héo hon rầu rĩ. Nó chẳng khác nào nỗi lòng đang tan ra vì buồn tủi của Thuý Kiều.
Đáng sợ hơn, nơi lầu Ngưng Bích bơ vơ tứ bể biển cả, Kiều còn mang một dự cảm hãi hùng về tương lai đầy sóng gió:
“Buồn trông gió cuốn mặt duyềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”
“Gió cuốn mặt duềnh” để báo trước một đợt giông bão của biển cả và cũng là báo trước những giông bão của cuộc đời. Vậy là bi kịch của đời Kiều chưa dừng lại. Con Tạo còn muốn đánh ghen đến “dập liễu vùi hoa tơi bời” mới thoả. Nghe trong tiếng “ầm ầm” của sóng bể có tiếng bước chân của những bầy Khuyến Ưng hung hãn và vô nhân tính.
Từng chi tiết, hình ảnh khung cảnh thiên nhiên đều mang đậm trạng thái tình cảm của Thuý Kiều. Mỗi cảnh là mỗi tình, song tất cả đều buồn thương, đúng là: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Đặc biệt, cụm từ buồn trông lặp lại bốn lần trong tám câu thơ như những đợt sóng lòng trùng điệp, càng khiến nỗi buồn dằng dặc, mênh mông, kết hợp với cái nhìn từ xa đến gần, thu hẹp dần vào nội cảm con người để đến cuối đoạn thì tâm trạng cô đơn, sầu nhớ, cảm giác đau đớn trào lên. Sóng gió nổi lên như sự báo về những đau khổ ê chề rồi đây sẽ xảy ra đối với Kiều, là dự cảm cho một đoạn đời “thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần.”.
Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”(trích “Truyện Kiều”) đã thể hiện tâm trạng cô đơn, buồn nhớ và đặc biệt là những biến động dữ dội trong tâm trạng Thuý Kiều khi ở nơi “góc bể chân trời” bơ vơ, buồn tủi. Đoạn trích đã khẳng sự kì tài của Nguyễn Du trong việc miêu tả nội tâm nhân vật bằng bút pháp “tả cảnh ngụ tình” đặc sắc
Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là bức tranh tâm trạng của Thúy kiều ở lầu Ngưng Bích, đây là một trong những đoạn văn miêu trả tâm trạng thành công nhất của nhân vật Thúy Kiều. Tác giả Nguyễn Du đã rất thành công khi sử dụng bút pháp nghệ thuật tả cảnh ngụ tình để thể hiện tâm trạng của nhân vật Thúy Kiều.
“Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”
Đoạn trích có nhịp điệu nhẹ nhàng, miên man mang nỗi buồn phảng phất từ lòng người lan truyền thấm vào cảnh vật, rồi từ cảnh vật rồi xoáy vào lòng người. Hầu như không dòng nào, câu nào, hình ảnh âm thanh nào trong đoạn trích không ít nhiều thể hiện tâm trạng nhân vật. Tâm trạng bẽ bàng, buồn nhớ, lo lắng… khi Kiều một mình trước lầu Ngưng Bích.
“Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia”
Bốn câu thơ trên là bức tranh thiên nhiên quanh lầu và cũng là bức tranh tâm trạng. Hoàn cảnh của kiều lúc này rất bung lung, bi thảm. Kiều được Tú bà cho ra ở lầu ngư bích nhưng thực chất là giam lỏng nàng.
Nàng trơ trọi giữa không gian mênh mông, hoang vắng. Từ trên lầu cao Kiều ngóng vọng ra 4 phía bát ngát, dãy núi mờ xa những cồn cát vàng, trải dài chỉ có mảnh trăng gần ở chung. Những hình ảnh non xa, mà cũng có thể hình ảnh mang tính ước lệ để gợi sự mênh mông, hoang vắng, rộn ngợp không gian. Qua đó làm nổi bật hoàn cảnh tâm trạng bẽ bàng rộn nghợp của Kiều.