Phân tích 2 khổ thơ đầu bài “Bài thơ về tiểu đội xe không kính ”
0 bình luận về “Phân tích 2 khổ thơ đầu bài “Bài thơ về tiểu đội xe không kính “”
Từ nơi em gửi đến nơi anh
Những đòan quân trùng trùng ra trận
Như tình yêu nối lời vô tận
Đông Trường Sơn, nối tây Trường Sơn…
“Những đoàn quân trùng trùng ra trận” được nhà thơ Phạm Tiến Duật nói đến trong bài thơ Trường Sơn đông, Trường Sơn tây và hàng ngàn, hàng vạn thanh niên, thanh nữ Việt Nam ào ào ra trận với khí thế“ xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” thời chống Mỹ, trong đó có những tiểu đội xe không kính trên con đường mòn Hồ Chí Minh.
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” được Phạm Tiến Duật viết năm 1969, hơn 40 năm sau người đọc vẫn cảm thấy hừng hực không khí chiến trường và khí thế ra trận của những chiến sĩ trong binh đoàn vận tải quân sự. Đây là bốn khổ thơ đầu. Giọng thơ mạnh mẽ hùng hồn vang lên như một tráng ca anh hùng.
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi”.
Hai cầu đầu như một lời hỏi-đáp rất hồn nhiên của người lính. Chiếc xe vận tải vốn có kính nhưng trong bom đạn “kính vỡ đi rồi”. Các điệp ngữ: “không có.. không phải… không có”, “bom giật, bom rung” đã làm cho âm điệu thơ hùng tráng gợi tả không khí ác liệt chiến trường. Vần thơ đã làm hiện lên những chiếc xe vận tải quân sự mang đầy thương tích chiến tranh, và hình ảnh người chiến sĩ can trường, dày dạn kinh nghiêm trong khói lửa,
Một tư thế chiến đấu rất đẹp:
” Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất. nhìn trời, nhìn thẳng”
Cái ngồi “ung dung” đàng hoàng làm chủ tình thế. Một cái nhìn khoáng đạt bao la giữa chiến trường:“Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”. Nhịp thơ 2/2/2 với điệp từ ‘‘nhìn’’ đã thể hiện tuyệt đẹp một tư thế chiến đấu rất đĩnh đạc hào hùng của người lính trẻ trong mưa bom bão đạn của giặc Mỹ.
Khổ thơ thứ hai mở ra một không gian rộng lớn, những cung đường chiến lược phía trưóc. “Nhìn thấy gió…”, “nhìn thấy con đường…”, rồi “nhìn thấy sao trời…” các điệp ngữ ấy có giá trị gợi tả tiểu đội xe không kính, nối đuôi nhau hành quân ra chiến trường. Xe không kính, xe phóng băng băng, nên “gió vào xoa mắt đắng”. Chữ “đắng” chuyển đổi cảm giác, một cách viết tài hoa. Sao trời và cánh chim mà người chiến sĩ “thấy” tưởng “như sa vào buồng lái” đã diễn tả thật hay tốc độ phi thường của tiểu đội xe không kính ra trận trong mọi thời gian đêm ngày, trên mọi địa hình gian khổ:
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái
Sau gió “xoa mắt đắng” là bụi. Bốn chữ “ừ thì có bụi” như một tiếng “mặc kệ” cất lên, biểu thị một thái độ sẵn sàng chấp nhận. Bụi làm cho những mái tóc xanh trở thành “ tóc trắng như người già”. “Mặt lấm” cũng chẳng cần vội rửa. Cách hút thuốc “phì phèo”, tiếng “cười ha ha” là những chi tiết nghệ thuật hóm hỉnh thể hiện tinh thần lạc quan, hồn nhiên, yêu đời của tiểu đội xe không kính:
Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già,
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Tiểu đội xe không kính đã xông pha trong cảnh “bom giật bom rung”, đã nếm trải nhiều gió bụi, vô cùng gian khổ, các anh còn hành quân trong mưa. Hai câu thơ nối tiếp xuất hiện như tiếng nói của người lính coi thường mọi thử thách:
– Không có kính, ừ thì có bụi,
– Không có kính, ừ thì ướt áo.
Mưa rừng dữ dội, vả lại xe không kính, gian khổ không thể nào kể xiết: “Mưa tuôn, mưu xối như ngoài trời”. Trong gian khổ các anh vẫn hiên ngang xông tới chi viện cho chiến trường miền Nam phía trước:
Không có kính, ừ thì ướt áo,
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.
Thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp. Con người và thời đại được nói đến trong đoạn thơ trên là những chiến sĩ lái xe can trường và dũng cảm, lạc quan và yêu đời, trẻ trung và hồn nhiên trong gian khổ và nguy hiểm trên con đường chiến lược Trường Sơn thời đánh Mỹ. Tiểu đội xe không kính tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng của tuổi trẻ Việt Nam trong chống Mỹ cứu nước.
Đoạn thơ trên đây hội tụ bao vẻ đẹp nghệ thuật. Câu thơ mang màu sắc văn xuôi thể hiện “chất lính” thời máu lửa. Các điệp từ, điệp ngữ, các hình ảnh về chiếc xe không kính, về tư thế lái xe, về cái nhìn, mái tóc, nụ cười,… đã diễn tả thật đẹp chí khí anh hùng của tiểu đội xe không kính, đồng thời làm cho giọng thơ vang lên mạnh mẽ, hào hùng mang âm điệu anh hùng ca.
Bom, gió, bụi, mưa được nhà thơ nói đến đã diễn tả đầy ấn tượng về sư gian khổ, ác liệt của chiến trường. Trên cái nền ấy, hình tượng tiểu đội xe không kính sừng sững hiện lên trong tầm vóc những anh hùng cho ta nhiều ngưỡng mộ.
* Khổ thơ thứ 6: Tình đồng chí, đồng đội gắn bó, yêu thương.
–Lúc cắm trại, các anh trò chuyện, ăn uống, nghỉ ngơi thoải mái, nhường nhịn nhau như anh em ruột thịt: chung bát,chung đũa, mắc võng chông chênh…
– Điệp từ “lại đi”: gợi tả nhịp sống chiến đấu và hành quân của tiểu đội xe không kính mà không một sức mạnh đạn bom nào có thể ngăn cản nổi.
* Khổ thơ cuối:Ý chí chiến đấu vì miền Nam, thống nhất đất nước –thể hiện ý chí sắt đá của những người lính –Hai câu đầu dồn dập những mất mát, khó khăn do quân địch gieo xuống
– hai câu cuối là vẻ đẹp của người lính trong cuộc kháng chiến chống Mĩ gian khổ: trẻ trung, lạc quan, dù hiểm nguy nhưng vẫn sẵn lòng
– trái tim: một chân lí của thời đại chúng ta: sức mạnh quyết định, chiến thắng không phải là vũ khí, là công cụ… mà là con người- con người mang trái tim nồng nàn yêu thương, ý chí kiên cường dũng cảm
* Liên tưởng với lý tưởng sống hiện nay của thanh niên
Từ nơi em gửi đến nơi anh
Những đòan quân trùng trùng ra trận
Như tình yêu nối lời vô tận
Đông Trường Sơn, nối tây Trường Sơn…
“Những đoàn quân trùng trùng ra trận” được nhà thơ Phạm Tiến Duật nói đến trong bài thơ Trường Sơn đông, Trường Sơn tây và hàng ngàn, hàng vạn thanh niên, thanh nữ Việt Nam ào ào ra trận với khí thế “ xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” thời chống Mỹ, trong đó có những tiểu đội xe không kính trên con đường mòn Hồ Chí Minh.
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” được Phạm Tiến Duật viết năm 1969, hơn 40 năm sau người đọc vẫn cảm thấy hừng hực không khí chiến trường và khí thế ra trận của những chiến sĩ trong binh đoàn vận tải quân sự. Đây là bốn khổ thơ đầu. Giọng thơ mạnh mẽ hùng hồn vang lên như một tráng ca anh hùng.
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi”.
Hai cầu đầu như một lời hỏi-đáp rất hồn nhiên của người lính. Chiếc xe vận tải vốn có kính nhưng trong bom đạn “kính vỡ đi rồi”. Các điệp ngữ: “không có.. không phải… không có”, “bom giật, bom rung” đã làm cho âm điệu thơ hùng tráng gợi tả không khí ác liệt chiến trường. Vần thơ đã làm hiện lên những chiếc xe vận tải quân sự mang đầy thương tích chiến tranh, và hình ảnh người chiến sĩ can trường, dày dạn kinh nghiêm trong khói lửa,
Một tư thế chiến đấu rất đẹp:
” Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất. nhìn trời, nhìn thẳng”
Cái ngồi “ung dung” đàng hoàng làm chủ tình thế. Một cái nhìn khoáng đạt bao la giữa chiến trường: “Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”. Nhịp thơ 2/2/2 với điệp từ ‘‘nhìn’’ đã thể hiện tuyệt đẹp một tư thế chiến đấu rất đĩnh đạc hào hùng của người lính trẻ trong mưa bom bão đạn của giặc Mỹ.
Khổ thơ thứ hai mở ra một không gian rộng lớn, những cung đường chiến lược phía trưóc. “Nhìn thấy gió…”, “nhìn thấy con đường…”, rồi “nhìn thấy sao trời…” các điệp ngữ ấy có giá trị gợi tả tiểu đội xe không kính, nối đuôi nhau hành quân ra chiến trường. Xe không kính, xe phóng băng băng, nên “gió vào xoa mắt đắng”. Chữ “đắng” chuyển đổi cảm giác, một cách viết tài hoa. Sao trời và cánh chim mà người chiến sĩ “thấy” tưởng “như sa vào buồng lái” đã diễn tả thật hay tốc độ phi thường của tiểu đội xe không kính ra trận trong mọi thời gian đêm ngày, trên mọi địa hình gian khổ:
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái
Sau gió “xoa mắt đắng” là bụi. Bốn chữ “ừ thì có bụi” như một tiếng “mặc kệ” cất lên, biểu thị một thái độ sẵn sàng chấp nhận. Bụi làm cho những mái tóc xanh trở thành “ tóc trắng như người già”. “Mặt lấm” cũng chẳng cần vội rửa. Cách hút thuốc “phì phèo”, tiếng “cười ha ha” là những chi tiết nghệ thuật hóm hỉnh thể hiện tinh thần lạc quan, hồn nhiên, yêu đời của tiểu đội xe không kính:
Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già,
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Tiểu đội xe không kính đã xông pha trong cảnh “bom giật bom rung”, đã nếm trải nhiều gió bụi, vô cùng gian khổ, các anh còn hành quân trong mưa. Hai câu thơ nối tiếp xuất hiện như tiếng nói của người lính coi thường mọi thử thách:
– Không có kính, ừ thì có bụi,
– Không có kính, ừ thì ướt áo.
Mưa rừng dữ dội, vả lại xe không kính, gian khổ không thể nào kể xiết: “Mưa tuôn, mưu xối như ngoài trời”. Trong gian khổ các anh vẫn hiên ngang xông tới chi viện cho chiến trường miền Nam phía trước:
Không có kính, ừ thì ướt áo,
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.
Thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp. Con người và thời đại được nói đến trong đoạn thơ trên là những chiến sĩ lái xe can trường và dũng cảm, lạc quan và yêu đời, trẻ trung và hồn nhiên trong gian khổ và nguy hiểm trên con đường chiến lược Trường Sơn thời đánh Mỹ. Tiểu đội xe không kính tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng của tuổi trẻ Việt Nam trong chống Mỹ cứu nước.
Đoạn thơ trên đây hội tụ bao vẻ đẹp nghệ thuật. Câu thơ mang màu sắc văn xuôi thể hiện “chất lính” thời máu lửa. Các điệp từ, điệp ngữ, các hình ảnh về chiếc xe không kính, về tư thế lái xe, về cái nhìn, mái tóc, nụ cười,… đã diễn tả thật đẹp chí khí anh hùng của tiểu đội xe không kính, đồng thời làm cho giọng thơ vang lên mạnh mẽ, hào hùng mang âm điệu anh hùng ca.
Bom, gió, bụi, mưa được nhà thơ nói đến đã diễn tả đầy ấn tượng về sư gian khổ, ác liệt của chiến trường. Trên cái nền ấy, hình tượng tiểu đội xe không kính sừng sững hiện lên trong tầm vóc những anh hùng cho ta nhiều ngưỡng mộ.
DÀN Ý:
1 Mở bài:
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm
– Giới thiệu nội dung 2 khổ cuối
2 Thân bài:
* Hoàn cảnh sáng tác:
* Khổ thơ thứ 6: Tình đồng chí, đồng đội gắn bó, yêu thương.
– Lúc cắm trại, các anh trò chuyện, ăn uống, nghỉ ngơi thoải mái, nhường nhịn nhau như anh em ruột thịt: chung bát,chung đũa, mắc võng chông chênh…
– Điệp từ “lại đi”: gợi tả nhịp sống chiến đấu và hành quân của tiểu đội xe không kính mà không một sức mạnh đạn bom nào có thể ngăn cản nổi.
* Khổ thơ cuối: Ý chí chiến đấu vì miền Nam, thống nhất đất nước
– thể hiện ý chí sắt đá của những người lính
– Hai câu đầu dồn dập những mất mát, khó khăn do quân địch gieo xuống
– hai câu cuối là vẻ đẹp của người lính trong cuộc kháng chiến chống Mĩ gian khổ: trẻ trung, lạc quan, dù hiểm nguy nhưng vẫn sẵn lòng
– trái tim: một chân lí của thời đại chúng ta: sức mạnh quyết định, chiến thắng không phải là vũ khí, là công cụ… mà là con người- con người mang trái tim nồng nàn yêu thương, ý chí kiên cường dũng cảm
* Liên tưởng với lý tưởng sống hiện nay của thanh niên
3. Kết bài:
– Tổng kết lại vấn đề
– Suy ra