Phân tích bài thơ “Ông Đồ”
Không chép mạng nha
Giúp mình với mai nộp rồi
0 bình luận về “Phân tích bài thơ “Ông Đồ”
Không chép mạng nha
Giúp mình với mai nộp rồi”
Đáp án: Mình có tham khảo mạng, nhưng đã chỉnh sửa lại. Bạn nào có ý báo cáo nhớ đọc kĩ giúp.
Giải thích các bước giải:
Thơ Xuân Diệu có sự say đắm, thơ Hàn Mặc Tử có sự điên loạn, thơ Huy Cận có sự buồn bã còn thơ Vũ Đình Liên lại mang một giọng điệu hoài cổ. Mỗi người nghệ sĩ có phong cách thơ khác nhau, tạo nên những nét riêng biệt để họ phân biệt được với các tác giả khác và gây ấn tượng cho bạn đọc. Và có lẽ, Vũ Đình Liên chính là người gây được ấn tượng nhất. Sáng tác không nhiều nhưng Vũ Đình Liên đã để lại cho văn học Việt Nam những tác phẩm vô cùng giá trị, tiêu biểu là “Ông đồ”.
Bài thơ được sáng tác năm 1936 và được đăng trên tạp chí “Tinh hoa”. Ra đời trong hoàn cảnh nền Hán học đang mất dần vị thế của mình do sự xâm nhập của nền văn hóa phương Tây, bài thơ thể hiện nỗi nhớ thương, tiếc nuối ông đồ – những con người đã không còn được trọng vọng do thời thế thay đổi.
Nhắc đến ông đồ là nhắc đến những thầy dạy chữ Nho ngày xưa, mỗi dịp Tết đến xuân về ông thường xuất hiện bên đường phố để viết những câu đối đỏ:
“Mỗi năm hoa đào nở Lại thấy ông đồ già Bày mực tàu giấy đỏ Bên phố đông người qua”
Hình ảnh này đã trở nên quen thuộc bởi Tết nào ông đồ già cũng xuất hiện cùng với mực tàu và giấy đỏ. Đó là thời đắc ý, thời vàng son của ông. Mỗi khi Tết đến, ông lại trở thành nhân vật quan trọng chốn phố phường. Không gian làm việc của ông là bên phố. Dưới những bông hoa đào cùng tiết trời se lạnh, có một ông đồ già đang vẽ những nét chữ điêu luyện và sự nhộn nhịp của bước chân người qua lại. Tất cả đã tạo nên một bức tranh thật tươi vui. Từ “mỗi”, “lại” đã phần nào thể hiện nhịp điệu đều đặn ấy. Hoa đào và ông đồ đã song hành, sóng đôi cùng nhau để tôn thêm vẻ đẹp của ngày Tết. Màu hồng của hoa đào, màu đen của thỏi mực, màu đỏ của giấy đã làm bức tranh thêm phần sinh động.
Tài năng viết chữ của ông đồ được mọi người ngợi khen, thán phục:
“Bao nhiêu người thuê viết Tấm tắc ngợi khen tài Hoa tay thảo những nét Như phượng múa rồng bay”.
Cái “cửa hàng văn hóa lưu động” (theo cách nói của Vũ Quần Phương) thật đông vui làm sao. Rất nhiều người thuê ông viết chữ, họ không chỉ quý trọng những nét chữ của ông mà họ còn dành cho ông một lòng kính trọng. Ông đã phô diễn tài năng của mình qua các câu đối đỏ, qua những nét chữ rồng bay phượng múa, khiến bao người phải “tấm tắc ngợi khen tài”. Phép tu từ so sánh “như phượng múa rồng bay” vừa thể hiện nét chữ đẹp của ông đồ vừa chp thấy lòng ngưỡng mộ, sự tôn trọng của Vũ Đình Liên nói riêng và nhân dân ta nói chung dành cho ông. Đây cũng là sự trân trọng những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Hai khổ đầu, những câu thơ có nhịp điệu nhanh, liền mạch, tạo nên âm hưởng tươi vui.
Nhưng khi thời thế thay đổi cũng là lúc ông đồ không còn được trọng vọng, ngưỡng mộ:
“Nhưng mỗi năm mỗi vắng Người thuê viết nay đâu? Giấy đỏ buồn không thắm Mực đọng trong nghiên sầu…”
Trước đây, người thuê ông đồ viết chữ nhiều là thế nhưng nay họ đã đi đâu hết? Họ vẫn ở đó, vẫn xuất hiện trong cuộc sống nhưng sự xâm nhập của văn hóa phương Tây đã làm những giá trị văn hóa truyền thống bị mai một. Câu hỏi tu từ: “Người thuê viết nay đâu?” vang lên với bao đau đớn. Nỗi buồn ấy còn nhuốm sang cả cảnh vật, sang cả những gì vô tri vô giác. Người buồn, nên những vật dụng đã từng gắn bó thân thiết với người cũng buồn theo: Giấy đỏ chẳng còn thắm tươi như ngày xưa, như chính cái cách mà chữ Hán phai nhạt, nhường chỗ cho chữ quốc ngữ và chữ Pháp. Chút mực còn đọng lại trong nghiên cũng sầu não theo. Biện pháp nhân hóa đã thể hiện tâm trạng u uất của ông đồ và cũng là sự xót xa, thương cảm của nhà thơ.
Nền Hán học đã suy tàn nhưng với mong muốn lưu giữ lại những giá trị văn hóa mà ông đồ già vẫn kiên trì ngồi bên hè phố như bao năm trước:
“Ông đồ vẫn ngồi đấy Qua đường không ai hay Lá vàng rơi trên giấy Ngoài giời mưa bụi bay”
Nhưng sự xuất hiện của ông không được mọi người chú ý, quan tâm như thời vàng son. Bóng dáng ông cứ lặng lẽ qua đường, lặng lẽ bên phố mà không một ai hay biết. Hình ảnh ông đồ đã rơi vào quên lãng. Hình ảnh ấy chỉ là “cái di tích tiều tụy đáng thương của một thời tàn” (lời tác giả). Sự tàn phai của Hán học lại một lần nữa được thể hiện qua hình ảnh chiếc lá vàng cùng không khí lạnh lẽo của làn mưa bụi lất phất, khiến cảnh vật nhuốm màu sắc tâm trạng. Mọi người đã gạt ông đồ ra khỏi trí nhớ và kí ức, họ coi ông như người vô hình trong xã hội đương thời.
“Năm nay hoa đào nở Không thấy ông đồ xưa Những người muôn năm cũ Hồn ở đâu bây giờ?”
Ông đồ đã thực sự vắng bóng. Một ngày Tết đã đến, đào vẫn khoe sắc hương, cảnh vật vẫn tuần hoàn theo quy luật tự nhiên nhưng ông đồ đã không còn xuất hiện nữa. Sự vắng bóng của ông khiến chúng ta không khỏi thương tiếc cho một giá trị tinh thần đã không còn tồn tại. Những con người trước đây từng thuê ông đồ viết câu đối, những người từng tôn trọng ông đồ nay đã hoàn toàn thay đổi. Họ bận thích nghi với nền văn hóa mới từ Tây phương nên tâm hồn họ cũng không còn chỗ cho những tinh túy của văn hóa truyền thống. Hai câu cuối bài thơ là câu hỏi day dứt, ngậm ngùi: “Những người muôn năm cũ – Hồn ở đâu bây giờ?”. Câu hỏi không lời đáp ấy cứ vương vấn không dứt trong lòng người đọc khi đọc xong bài thơ.
Bằng việc sử dụng hình ảnh hoa đào, ông đồ ở đầu và cuối bài thơ, tác giả đã khắc họa thành công hình ảnh trái ngược của ông đồ ở thời kì vàng son và ông đồ khi thất thế. Thể thơ năm chữ đã giúp nhà thơ bày tỏ cảm xúc một cách dễ dàng. “Ông đồ” là sự hoài niệm về những giá trị xưa cũ, bộc lộ niềm cảm thương sâu sắc của tác giả Vũ Đình Liên.
Đáp án: Mình có tham khảo mạng, nhưng đã chỉnh sửa lại. Bạn nào có ý báo cáo nhớ đọc kĩ giúp.
Giải thích các bước giải:
Thơ Xuân Diệu có sự say đắm, thơ Hàn Mặc Tử có sự điên loạn, thơ Huy Cận có sự buồn bã còn thơ Vũ Đình Liên lại mang một giọng điệu hoài cổ. Mỗi người nghệ sĩ có phong cách thơ khác nhau, tạo nên những nét riêng biệt để họ phân biệt được với các tác giả khác và gây ấn tượng cho bạn đọc. Và có lẽ, Vũ Đình Liên chính là người gây được ấn tượng nhất. Sáng tác không nhiều nhưng Vũ Đình Liên đã để lại cho văn học Việt Nam những tác phẩm vô cùng giá trị, tiêu biểu là “Ông đồ”.
Bài thơ được sáng tác năm 1936 và được đăng trên tạp chí “Tinh hoa”. Ra đời trong hoàn cảnh nền Hán học đang mất dần vị thế của mình do sự xâm nhập của nền văn hóa phương Tây, bài thơ thể hiện nỗi nhớ thương, tiếc nuối ông đồ – những con người đã không còn được trọng vọng do thời thế thay đổi.
Nhắc đến ông đồ là nhắc đến những thầy dạy chữ Nho ngày xưa, mỗi dịp Tết đến xuân về ông thường xuất hiện bên đường phố để viết những câu đối đỏ:
“Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua”
Hình ảnh này đã trở nên quen thuộc bởi Tết nào ông đồ già cũng xuất hiện cùng với mực tàu và giấy đỏ. Đó là thời đắc ý, thời vàng son của ông. Mỗi khi Tết đến, ông lại trở thành nhân vật quan trọng chốn phố phường. Không gian làm việc của ông là bên phố. Dưới những bông hoa đào cùng tiết trời se lạnh, có một ông đồ già đang vẽ những nét chữ điêu luyện và sự nhộn nhịp của bước chân người qua lại. Tất cả đã tạo nên một bức tranh thật tươi vui. Từ “mỗi”, “lại” đã phần nào thể hiện nhịp điệu đều đặn ấy. Hoa đào và ông đồ đã song hành, sóng đôi cùng nhau để tôn thêm vẻ đẹp của ngày Tết. Màu hồng của hoa đào, màu đen của thỏi mực, màu đỏ của giấy đã làm bức tranh thêm phần sinh động.
Tài năng viết chữ của ông đồ được mọi người ngợi khen, thán phục:
“Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay”.
Cái “cửa hàng văn hóa lưu động” (theo cách nói của Vũ Quần Phương) thật đông vui làm sao. Rất nhiều người thuê ông viết chữ, họ không chỉ quý trọng những nét chữ của ông mà họ còn dành cho ông một lòng kính trọng. Ông đã phô diễn tài năng của mình qua các câu đối đỏ, qua những nét chữ rồng bay phượng múa, khiến bao người phải “tấm tắc ngợi khen tài”. Phép tu từ so sánh “như phượng múa rồng bay” vừa thể hiện nét chữ đẹp của ông đồ vừa chp thấy lòng ngưỡng mộ, sự tôn trọng của Vũ Đình Liên nói riêng và nhân dân ta nói chung dành cho ông. Đây cũng là sự trân trọng những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Hai khổ đầu, những câu thơ có nhịp điệu nhanh, liền mạch, tạo nên âm hưởng tươi vui.
Nhưng khi thời thế thay đổi cũng là lúc ông đồ không còn được trọng vọng, ngưỡng mộ:
“Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu…”
Trước đây, người thuê ông đồ viết chữ nhiều là thế nhưng nay họ đã đi đâu hết? Họ vẫn ở đó, vẫn xuất hiện trong cuộc sống nhưng sự xâm nhập của văn hóa phương Tây đã làm những giá trị văn hóa truyền thống bị mai một. Câu hỏi tu từ: “Người thuê viết nay đâu?” vang lên với bao đau đớn. Nỗi buồn ấy còn nhuốm sang cả cảnh vật, sang cả những gì vô tri vô giác. Người buồn, nên những vật dụng đã từng gắn bó thân thiết với người cũng buồn theo: Giấy đỏ chẳng còn thắm tươi như ngày xưa, như chính cái cách mà chữ Hán phai nhạt, nhường chỗ cho chữ quốc ngữ và chữ Pháp. Chút mực còn đọng lại trong nghiên cũng sầu não theo. Biện pháp nhân hóa đã thể hiện tâm trạng u uất của ông đồ và cũng là sự xót xa, thương cảm của nhà thơ.
Nền Hán học đã suy tàn nhưng với mong muốn lưu giữ lại những giá trị văn hóa mà ông đồ già vẫn kiên trì ngồi bên hè phố như bao năm trước:
“Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài giời mưa bụi bay”
Nhưng sự xuất hiện của ông không được mọi người chú ý, quan tâm như thời vàng son. Bóng dáng ông cứ lặng lẽ qua đường, lặng lẽ bên phố mà không một ai hay biết. Hình ảnh ông đồ đã rơi vào quên lãng. Hình ảnh ấy chỉ là “cái di tích tiều tụy đáng thương của một thời tàn” (lời tác giả). Sự tàn phai của Hán học lại một lần nữa được thể hiện qua hình ảnh chiếc lá vàng cùng không khí lạnh lẽo của làn mưa bụi lất phất, khiến cảnh vật nhuốm màu sắc tâm trạng. Mọi người đã gạt ông đồ ra khỏi trí nhớ và kí ức, họ coi ông như người vô hình trong xã hội đương thời.
“Năm nay hoa đào nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?”
Ông đồ đã thực sự vắng bóng. Một ngày Tết đã đến, đào vẫn khoe sắc hương, cảnh vật vẫn tuần hoàn theo quy luật tự nhiên nhưng ông đồ đã không còn xuất hiện nữa. Sự vắng bóng của ông khiến chúng ta không khỏi thương tiếc cho một giá trị tinh thần đã không còn tồn tại. Những con người trước đây từng thuê ông đồ viết câu đối, những người từng tôn trọng ông đồ nay đã hoàn toàn thay đổi. Họ bận thích nghi với nền văn hóa mới từ Tây phương nên tâm hồn họ cũng không còn chỗ cho những tinh túy của văn hóa truyền thống. Hai câu cuối bài thơ là câu hỏi day dứt, ngậm ngùi: “Những người muôn năm cũ – Hồn ở đâu bây giờ?”. Câu hỏi không lời đáp ấy cứ vương vấn không dứt trong lòng người đọc khi đọc xong bài thơ.
Bằng việc sử dụng hình ảnh hoa đào, ông đồ ở đầu và cuối bài thơ, tác giả đã khắc họa thành công hình ảnh trái ngược của ông đồ ở thời kì vàng son và ông đồ khi thất thế. Thể thơ năm chữ đã giúp nhà thơ bày tỏ cảm xúc một cách dễ dàng. “Ông đồ” là sự hoài niệm về những giá trị xưa cũ, bộc lộ niềm cảm thương sâu sắc của tác giả Vũ Đình Liên.
P/s: Mỏi tay lắm luôn á, bạn cho mình xin TLHN nha.
CHÚC BẠN HỌC TỐT.