Phân tích chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa nhân đạo và cảm hứng thế sự qua hai tác phẩm Bình ngô đại cáo và Truyện Kiều Mong mọi người giúp đỡ em ạ❤❤

Phân tích chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa nhân đạo và cảm hứng thế sự qua hai tác phẩm Bình ngô đại cáo và Truyện Kiều
Mong mọi người giúp đỡ em ạ❤❤

0 bình luận về “Phân tích chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa nhân đạo và cảm hứng thế sự qua hai tác phẩm Bình ngô đại cáo và Truyện Kiều Mong mọi người giúp đỡ em ạ❤❤”

  1. Dân tộc Việt Nam ta từ bao đời nay luôn có một truyền thống tốt đẹp đó là lòng nồng nàn yêu nước, tinh thần tự tôn dân tộc sâu sắc. Điều ấy không chỉ thể hiện mạnh mẽ và rõ ràng thông qua các cuộc chống giặc ngoại xâm giữ nước kể từ thời các vua Hùng cho đến tận ngày hôm nay, mà tinh thần yêu nước của dân tộc ta còn được gửi gắm một cách sâu sắc và khéo léo vào nhiều các tác phẩm văn chương đặc sắc, với ngòi bút tài hoa của nhiều tác giả. Đặc biệt với Nguyễn Trãi một nhà chính trị, nhà quân sự tài ba, kiệt xuất, một danh nhân văn hóa thế giới thì tư tưởng yêu nước của người gửi gắm trong tác phẩm lại càng có nhiều điểm đáng quý, đáng trân trọng tôn sùng hơn cả. Bình Ngô đại cáo, tác phẩm nổi tiếng nhất trong sự nghiệp văn chương của Nguyễn Trãi, được muôn đời sau ca ngợi là áng thiên cổ hùng văn, là áng văn chính luận mẫu mực nhất đồng thời là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của nước ta, không chỉ mang trong mình giá trị lịch sử, vai trò chính trị quan trọng trong công cuộc chống quân Minh xâm lược mà còn chứa đựng trong mình cả tinh thần của một dân tộc – tinh thần yêu nước đã trở thành truyền thống ngàn đời và ngày một sâu nặng trong máu thịt văn hóa của nhân dân ta.

    Bình Ngô đại cáo là tác phẩm do Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi viết vào năm 1427, sau khi nghĩa quân Lam Sơn chiến thắng 15 vạn quân Minh xâm lược. Mục đích bố cáo thiên hạ về chiến thắng vẻ vang của dân tộc, khẳng định lại chủ quyền lãnh thổ, đồng thời thuật lại cuộc chiến đấu đầy khó khăn gian khổ, làm nổi bật sự bất nhân bất nghĩa của quân Minh với Đại Việt ta, củng cố tinh thần yêu nước của nhân dân. Đồng thời mở ra một kỷ nguyên mới cho đất nước, kết thúc chiến tranh, lập ra triều đại mới hứa hẹn sự thịnh trị và an bình dài lâu cho dân tộc.

    Trong tác phẩm, thứ nhất tinh thần yêu nước được tác giả thể hiện trong việc nêu lên luận đề chính nghĩa, để lấy đó làm căn cứ, cơ sở triển khai toàn bộ nội dung của bài cáo.

    “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
    Quân điếu phạt trước lo trừ bạo;
    Như nước Đại Việt ta từ trước,
    Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
    Núi sông bờ cõi đã chia,
    Phong tục Bắc Nam cũng khác;
    Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
    Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương;
    Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,Song hào kiệt thời nào cũng có
    Cho nên:
    Lưu Cung tham công nên thất bại;
    Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong;
    Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
    Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
    Việc xưa xem xét, chứng cứ còn ghi”

    Tinh thần yêu nước trước hết thể hiện ở tư tưởng nhân nghĩa mới mẻ của Nguyễn Trãi “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân/Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”, tức hành động nhân nghĩa phải đi liền với tình cảm yêu thương nhân dân, bảo vệ nhân dân khỏi những tai họa xâm lăng, đảm bảo cho nhân dân được một cuộc sống an bình, gắn với lòng yêu nước sâu sắc. Đồng thời cũng theo đó mà khẳng định nền độc lập lâu đời của dân tộc thông qua nhiều khía cạnh khác nhau như nền văn hiến lâu đời, cương vực lãnh thổ, phong tục khác biệt, và độc đáo, khéo léo trong việc so sánh các triều đại Triệu Đinh Lý Trần của nước ta với Hán, Đường, Tống Nguyên của phương Bắc, khẳng định việc xưng “đế” của dân tộc Đại Việt nhiều triều đại, chứ chưa từng chấp nhận làm chư hầu hay khuất phục trước sức mạnh của cường quốc bao giờ. Không chỉ vậy tinh thần yêu nước và lòng tự tôn dân tộc trong luận đề chính nghĩa còn được thể hiện một cách sắc bén thông qua việc tác giả khẳng định nước ta “hào kiệt đời nào cũng có”, cùng với việc dẫn ra hàng loạt các chiến tích và sự thất bại thảm hại của vương triều phương Bắc khi tiến quân vào xâm lược nước ta trong lịch sử. Để thể hiện sức mạnh của một dân tộc tuy lãnh thổ nhỏ bé, nhưng tinh thần yêu nước, sự đoàn kết chống giặc ngoại xâm thì luôn luôn vĩ đại, sẵn sàng tiêu diệt những kẻ thù to lớn để bảo vệ Tổ quốc từ bao đời nay.

    Sau khi đã nêu ra được luận đề chính nghĩa, tác giả đi vào khai thác, vạch trần tố cáo tội ác của giặc Minh, với giọng điệu xót xa, đau đớn và căm hờn, bộc lộ tinh thần nhân nghĩa, yêu nước thương dân sâu sắc. Thứ nhất trong vai trò là một nhà quân sự, chính trị, Nguyễn Trãi đứng trên lập trường của dân tộc để chỉ ra sự nham hiểm xảo trá của quân Minh.

    “Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
    Để trong nước lòng dân oán hận
    Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ
    Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh”

    Lòng yêu nước và sự sáng suốt của một nhà chính trị đã chỉ ra âm mưu xâm lược trắng trợn của quân Minh, khi chúng nhân dịp vương triều của Hồ Quý Ly lục đục nội bộ, vua không được lòng dân, phản loạn nổi lên khắp nơi, lại lấy cớ “phù Trần diệt Hồ” mê hoặc lòng dân để đem quân tràn vào nước ta xâm lược, tàn phá. Tiếp theo đó, Nguyễn Trãi tiếp tục đứng trên lập trường của một người dân Đại Việt, căm thù giặc Minh và đớn đau trước thực cảnh của dân tộc, để vạch trần tội ác của quân xâm lược khi tràn vào lãnh thổ nước ta, tố cáo hành động tàn ác và chủ trương cai trị vô nhân đạo của kẻ thù. Thứ nhất chúng tàn hại đồng bào bằng những hành động diệt chủng đầy man rợ tàn khốc “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn/Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”, phá hủy cuộc sống an bình của nhân dân, ra sức vơ vét của cải “Nặng thuế khóa sạch không đầm núi/Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ”, xem nhân dân ta như những cỗ máy biết nói, ra sức đàn áp, nô dịch thúc ép dân tộc Đại Việt phải lên rừng, xuống biển đối mặt với nhiều nguy hiểm, khổ sai để đem về những sản vật quý hiếm. Tất cả những tội ác ấy của giặc Minh được Nguyễn Trãi căm hờn tổng kết lại bằng hai câu “Độc ác thay trúc Nam Sơn không ghi hết tội/Dơ bẩn thay nước Đông Hải không rửa sạch mùi”. Cũng lần nữa khẳng định tội ác của giặc bằng câu cảm thán, câu hỏi “Lẽ nào trời đất dung tha/Ai bảo thần dân chịu được?”, bộc lộ tấm lòng yêu nước thương dân, sâu sắc của tác giả. Đặc biệt tinh thần yêu nước ở đoạn này được tác giả bộc lộ thông qua giọng điệu lúc đau đớn, xót xa, lúc lại ngập tràn căm thù sâu sắc. Kết hợp với một loạt các hình ảnh mang giá trị biểu cảm, diễn tả sự vô cùng tận, không thể đong đếm thường xuất hiện trong điển cố “nước Đông Hải”, “trúc Nam Sơn” để bộc lộ tội ác tày đình của giặc mang lại ấn tượng sâu sắc về tư tưởng nhân nghĩa, lòng yêu nước, thương dân tột cùng của Nguyễn Trãi.

    Không chỉ thể hiện ở luận đề chính nghĩa hay việc tố cáo tội ác của quân thù, mà tinh thần yêu nước còn được bộc lộ rất rõ trong quá trình tác giả thuật lại cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược, đầy vất vả mà cũng lắm vẻ vang. Trước hết nói về chủ soái của nghĩa quân, được xem là người anh hùng tiêu biểu nhất cho tinh thần yêu nước của cả dân tộc, đại diện cho ý chí quyết tâm dẹp giặc ngoại xâm, là niềm tự hào, hy vọng của cả một dân tộc đang lầm than. Chúng ta có thể thấy rằng Nguyễn Trãi đã thông qua việc bộc lộ vẻ đẹp của Lê Lợi để thể hiện tinh thần yêu nước chung của nhân dân Đại Việt một cách rất khéo léo và tinh tế.

    “Núi Lam sơn dấy nghĩa
    Chốn hoang dã nương mình
    Ngẫm thù lớn há đội trời chung
    Căm giặc nước thề không cùng sống
    Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời
    Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
    Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,
    Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ.
    Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
    Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi
    Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
    Chính lúc quân thù đang mạnh”

    Lê Lợi là một chủ soái xuất sắc, tài năng, có lòng căm thù giặc sâu sắc, lại có ý chí quyết tâm chống giặc lâu dài, không quản ngày tháng, mãi vẫn luôn trăn trở vì nền độc lập của đất nước. Tất cả những biểu hiện ấy chính là minh chứng rõ nhất cho tinh thần yêu nước, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi, của tác phẩm và của toàn nhân dân ta trong lúc đất nước gặp cảnh binh đao. Nhưng có lẽ rằng tinh thần yêu nước trong tác phẩm được thể hiện ấn tượng và sâu sắc nhất phải kể đến quá trình đấu tranh chống giặc ngoại xâm đầy anh dũng, kiên cường của dân tộc ta. Đó là biểu hiện rõ nét nhất, mạnh mẽ nhất cho lòng tự tôn dân tộc, quyết tâm bảo vệ mảnh đất quê hương bằng mọi giá. Cuộc khởi nghĩa đã đi từ những ngày thiếu thốn, khó khăn gian khổ nhất, vừa thiếu hụt người tài ra giúp nước, lực lượng quân đội còn non yếu, lương thực khan hiếm, trái lại quân thù thì người đông thế mạnh. Thế nhưng nghĩa quân Lam Sơn chưa từng vì điều đó mà trở nên kiệt quệ, mòn ý chí, ngược lại chính trong khó khăn, khắc khổ và sự căm thù giặc sâu sắc thì tinh thần yêu nước lại càng được đẩy lên cao, trở thành sức mạnh không kẻ thù nào chống lại được. Từ tinh thần yêu nước của quân dân đã nảy ra sự đoàn kết, thống nhất trong nghĩa quân “Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới/Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào”, trở thành sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, cùng nhau chống giặc bền bỉ, một lòng. Có thể nói rằng càng trong khó khăn, gian khổ thì tinh thần yêu nước của nhân dân ta lại càng được bộc lộ mạnh mẽ và rõ ràng. Trong chiến đấu tinh thần yêu nước được thể thông qua sự dũng mãnh, xông pha giết giặc của các tướng sĩ, những trận đánh oanh liệt”Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật/Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay/Sĩ khí đã hăng/Quân thanh càng mạnh”, quân ta liên tục giành về những vùng đất Ninh Kiều, Tốt Động, Đông Đô, Tây Kinh, đánh cho quân địch thất bại thảm hại “Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía/Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân”, “máu chảy thành sông”, “thây chất đầy nội”, nhục nhã vô cùng. Sĩ khí dâng cao, ta không vội mừng chiến thắng mà lơ là, khi kẻ địch tiếp tục mang quân chi viện, ta lại mau chóng “chặt mũi tiên phong”, “tuyệt nguồn lương thực”, “Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá…Lại thêm quân bốn mặt vây thành/Hẹn đến giữa tháng mười diệt giặc/Sĩ tốt kén người hùng hổ/Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh”, khiến chúng không kịp trở tay, “trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế”, “trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu”, Lương Minh tử vong, Bá Khánh cùng kế phải tự vẫn,… Phải nói rằng nghĩa quân Lam Sơn đã chiến thắng vô cùng vang dội, khiến kẻ thù nghe tiếng mà sợ hãi khôn cùng. Một Đại Việt nhỏ bé cả về lãnh thổ lẫn quân đội, nhưng lại có thể chiến thắng vẻ vang như thế không nằm đâu ngoài tinh thần yêu nước sâu sắc đã thành truyền thống từ bao đời nay cùng với tinh thần đoàn kết một lòng quyết tâm chống giặc. Kết thúc trận chiến, chúng ta đã không chọn cách đuổi cùng diệt tận mà lại “Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh”, “Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền/ Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa”. Đó cũng là một biểu hiện rất tinh tế của lòng yêu nước, bởi đất nước ta bấy lâu bị tàn phá nặng nề, việc cần làm là khôi phục nguyên khí của quốc gia, chứ không phải theo đuổi cuộc chiến, gây thù hằn sâu sắc với giặc Minh. Trái lại việc mở đường hiếu sinh cho chúng lại trở thành một hành động nhân văn bảo vệ đất nước, nhân dân khiến nhà Minh tạm thời không dám manh động, lại làm việc bất nghĩa, để quân dân ta được nghỉ sức xây dựng lại đất nước. Đấy mới là tinh thần yêu nước chân chính.

    Cuối cùng trong phần kết của bài cáo, tinh thần yêu nước lần nữa được khẳng định thông qua việc Nguyễn Trãi tuyên bố nền độc lập chủ quyền của dân tộc bằng giọng văn hùng hồn, sắc sảo, niềm tự hào, kiêu hãnh “Xã tắc từ đây vững bền/Giang sơn từ đây đổi mới”, mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc, khai sinh ra một triều đại thịnh trị lâu dài. Bên cạnh đó cũng không quên rút ra những bài học cho hậu thế về sau, thể hiện sự chu toàn, cũng như tấm lòng lo nghĩa cho muôn dân, khẳng định quy luật tuần hoàn của lịch sử, trời đất”Càn khôn bĩ rồi lại thái/Nhật nguyệt hối rồi lại minh”, tin tưởng vào vận mệnh và sức mạnh của dân tộc có thể xoay chuyển càn khôn. Nhưng đồng thời cũng thể hiện lòng biết ơn sâu sắc với truyền thống ngàn đời của dân tộc ” u cũng nhờ trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm phù trợ” và sức mạnh tổng hợp của thời đại “Một cỗ nhung y chiến thắng/Nên công oanh liệt ngàn năm”.

    Có thể thấy rằng Bình Ngô đại cáo không chỉ thể hiện tư tưởng nhân nghĩa, khẳng định chủ quyền dân tộc, ca ngợi chiến thắng của nghĩa quân Lam Sơn trong cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược, mở ra một kỷ nguyên mới độc lập cho đất nước như một bản tuyên ngôn độc lập. Mà sâu hơn, nó còn ẩn chứa một tinh thần yêu nước nồng nàn sâu sắc, vốn là truyền thống bao đời nay của dân tộc Đại Việt thông qua các cuộc kháng chiến vẻ vang và anh hùng. Tinh thần yêu nước ấy trong bài cáo không phải chỉ là tư tưởng của riêng Nguyễn Trãi, Lê Lợi hay nghĩa quân Lam Sơn mà nó là của toàn thể nhân dân Đại Việt, là sức mạnh tiềm tàng luôn nung nấu trong tiềm thức của mỗi con người, mà đến khi có giặc xâm lăng nó lại trào ra trong huyết quản, trở thành nguồn sức mạnh chiến đấu vĩ đại giúp ta chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược hung tàn.

    Không phải ngẫu nhiên mà Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi được mệnh danh là bản tuyên ngôn độc lập lần 2, là tác phẩm vô tiền khoáng hậu trong nền văn học trung đại Việt Nam. Bài cáo không chỉ tổng kết cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược mà còn thể hiện tình yêu nước, niềm tự hào trước sức mạnh của dân tộc.

    Bình luận

Viết một bình luận