Phân tích giá trị của phép so sánh sau: Dượng Hương Thư “giống như một hiệp sĩ của Trường Sơn oai linh hùng vĩ”. Bài tập 4: Đọc đoạn thơ sau: Con sẽ n

Phân tích giá trị của phép so sánh sau: Dượng Hương Thư “giống như một hiệp sĩ của Trường Sơn oai linh hùng vĩ”.
Bài tập 4:
Đọc đoạn thơ sau:
Con sẽ như giọt nắng
trước hiên bà mùa đông
Giọt nắng tìm kim
giọt nắng quét nhà
giọt nắng sún răng lò cò quanh cửa
giọt nắng ỉ eo theo bà đi chợ
lễ mễ khiếng cả chiếc bánh đa tròn.
(Theo Tuyết Nga, Nói với con về bà ngoại)
1. Hai câu thơ sau sử dụng phép tu từ nào? Hãy phân tích tác dụng của phép tu từ đó.
“Giọt nắng tìm kim
Giọt nắng quét nhà”
(Theo Tuyết Nga, Nói với con về bà ngoại)
2. Phân tích tình cảm của người mẹ dành cho con trong đoạn thơ của Tuyết Nga.
Bài tập 5:
Điền những từ ngữ thích hợp vào chỗ trống để tạo ra phép tu từ ẩn dụ.
a. Cắt dây bầu dây bí
Chẳng ai cắt …………………………….
b. Khôn ngoan đối đáp người ngoài
…………………………………… chớ hoài đá nhau.
c. Mở cửa cho người vào thì …………………………. cũng vào theo.
Chỉ rõ ý nghĩa của các hình ảnh ẩn dụ vừa tìm được.
Bài tập 6:
Thay thế những từ ngữ thích hợp với từ ngữ được gạch chân để có được phép hoán dụ.
a. Chồng ta nghèo khổ ta thương
Chồng người giàu sang, phú quý mặc người
b. Ít miệng thì kín, nhiều miệng thì hở
c. Ra thế! To gan hơn béo bụng
Anh hùng đâu cứ phải đàn ông ?
làm được đến đâu thì làm nhé

0 bình luận về “Phân tích giá trị của phép so sánh sau: Dượng Hương Thư “giống như một hiệp sĩ của Trường Sơn oai linh hùng vĩ”. Bài tập 4: Đọc đoạn thơ sau: Con sẽ n”

  1. dượng Hương Thư “giống như một hiệp sĩ của Trường Sơn oai linh hùng vĩ” là một hình ảnh so sánh đầy sức gợi. Hình ảnh ấy khiến ta liên tưởng tới những hình ảnh huyền thoại anh hùng xưa với tầm vóc và sức mạnh phi thường của những Đăm Săn, Xinh Nhã bằng xương, bằng thịt đang hiển hiện trước mắt. So sánh như vây, tác giả nhằm khắc hoạ nổi bật và tôn vinh sức mạnh của con người trong công cuộc chế ngự thiên nhiên. Lớp lớp những thế hệ trên mảnh đất này đã lao công khổ tứ với sự nghiệp chinh phục thiên nhiên hoang dã đổ giành phần sống cho mình, và hôm nay, không phải chỉ một mình dượng Hương Thư, không phải một mình người dân chài nào trên mảnh đất này đang đơn độc chống chọi với thác dữ mà là oai linh của hàng trăm người anh hùng đang tụ hội cùng hậu thế vượt qua thử thách. Không chỉ vậy, cách so sánh này còn đối lập mạnh mẽ với một hình ảnh “dượng Hương Thư ở nhà, nói nãng nhỏ nhẻ, tính nết nhu mì, ai gọi cũng vâng vâng dạ dạ”. Qua đó, tác giả khẳng định một phẩm chất đáng quí của người lao động: khiêm tốn, nhu mì đến nhút nhát trong cuộc đời thường, nhưng lại dũng mãnh, nhanh nhẹn, quyết liệt trọng công việc, trong khó khăn và thử thách. 

    Bình luận

Viết một bình luận