Phân tích giá trị tố cáo tội ác của chiến tranh và hành động của chúng ta ngày nay nếu chiến tranh xảy ra quá câu : ” đau đớn bấy mẹ già ngồi khóc trẻ

Phân tích giá trị tố cáo tội ác của chiến tranh và hành động của chúng ta ngày nay nếu chiến tranh xảy ra quá câu : ” đau đớn bấy mẹ già ngồi khóc trẻ ngọn đèn khuya loe lét trong lều não nùng thấy vợ yếu chạy tìm chồng cơn bóng xế dật dờ trước ngõ ”

0 bình luận về “Phân tích giá trị tố cáo tội ác của chiến tranh và hành động của chúng ta ngày nay nếu chiến tranh xảy ra quá câu : ” đau đớn bấy mẹ già ngồi khóc trẻ”

  1. I. Mở bài

    – Vài nét về Nguyễn Đình Chiểu: một tác giả mù nhưng nhân cách vô cùng cao đẹp, là một ngôi sao sáng trên bầu trời văn học dân tộc và “càng nhìn càng thấy sáng” (Phạm Văn Đồng)

    – Đôi nét về Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc: Bài văn tế là tiếng khóc bi tráng cho một thời kì lịch sử đau thương nhưng vĩ đại của dân tộc

    II. Thân bài

    1. Phần lung khởi: khái quát bối cảnh thời đại và lời khẳng định sự bất tử của người nông dân nghĩa sĩ

    + “Hỡi ôi!”: Câu cảm thán thể hiện niềm tiếc thương chân thành, thiết tha, thương tiếc

    + “ Súng giặc đất rền”: sự tàn phá nặng nề, giặc xâm lược bằng vũ khí tối tân

    + “ Lòng dân trời tỏ” : đánh giặc bằng tấm lòng yêu quê hương đất nước ⇒ Trời chứng giám

    – NT đối lập nhằm thể hiện khung cảnh bão táp của thời đại, những biến cố chính trị lớn lao.

    ⇒ Lời khẳng định tuy thất bại những người nghĩa sĩ hi sinh nhưng tiếng thơm còn lưu truyền mãi.

    2. Phần thích thực: Hình ảnh người nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc

    a. Nguồn gốc xuất thân

    – Từ nông dân nghèo khổ, những dân ấp, dân lân (những người bỏ quê đến khai khẩn đất mới để kiếm sống)

    + “ cui cút làm ăn ”: hoàn cảnh sống cô đơn, thiếu người nương tựa

    – NT tương phản “chưa quen >< chỉ biết, vốn quen >< chưa biết.

    ⇒ tác giả nhấn mạnh việc quen và chưa quen của người nông dân để tạo ra sự đối lập về tầm vóc của người anh hùng

    b. Lòng yêu nước nồng nàn

    – Khi TD Pháp xâm lược người nông dân cảm thấy: Ban đầu lo sợ ⇒ trông chờ tin quan ⇒ ghét ⇒ căm thù ⇒ đứng lên chống lại.

    ⇒ Diễn biến tâm trạng người nông dân, sự chuyển hóa phi thường trong thái độ

    – Thái độ đối với giặc: căm ghét, căm thù đến tột độ

    – Nhận thức về tổ quốc: Họ không dung tha những kẻ thù lừa dối, bịp bợm ⇒ họ chiến đấu một cách tự nguyện: “nào đợi đòi ai bắt…”

    c. Tinh thần chiến đấu hi sinh của người nông dân

    – Tinh thần chiến đấu tuyệt với: Vốn không phải lính diễn binh, chỉ là dân ấp dân lân mà “mến nghĩa làm quân chiêu mộ”

    – Quân trang rất thô sơ: một manh áo vải, ngọn tầm vông, lưỡi dao phay, rơm con cúi đã đi vào lịch sử.

    – Lập được những chiến công đáng tự hào: “ đốt xong nhà dạy đạo”, “ chém rớt đầu quan hai nọ”

    -“đạp rào”, “xô cửa”, “liều mình”, “đâm ngang”, “chém ngược”…: động từ mạnh chỉ hành động mạnh mẽ với mật độ cao nhịp độ khẩn trương sôi nổi

    ⇒ Tượng đài nghệ thuật sừng sững về người nông dân nghĩa sĩ đánh giặc cứu nước.

    3. Phần Ai vãn: Sự tiếc thương và cảm phục của tác giả trước sự hi sinh của người nghĩa sĩ

    – Sự hi sinh của những người nông dân được nói đến một cách hình ảnh với niềm tiếc thương chân thành

    – Hình ảnh gia đình: tang tóc, cô đơn, chia lìa, gợi không khí đau thương, buồn bã sau cuộc chiến.

    – Sự hi sinh của những người nông dân nghĩa sĩ để lại xót thương đau đớn cho tác giả, gia đình thân quyến, nhân dân Nam Bộ, nhân dân cả

    ⇒ Tiếng khóc lớn, tiếng khóc mang tầm vóc lịch sử

    ⇒ Bút pháp trữ tình, nhịp câu trầm lắng, gợi không khí lạnh lẽo, hiu hắt sau cái chết của nghĩa quân.

    4. Phần kết: ca ngợi linh hồn bất tử của người nghĩa sĩ

    – Tác giả khẳng định: “Một trận khói tan, nghìn năm tiết rỡ: Danh tiếng nghìn năm còn lưu mãi

    – Ông cũng nêu cao tinh thần chiến đấu, xả thân vì nghĩa lớn của nghĩa quân

    – Đây là cái tang chung của mọi người, của cả thời đại, là khúc bi tráng về người anh hùng thất thế.

    ⇒ khẳng định sự bất tử của những người nghĩa sĩ.

    III. Kết bài

    – Khái quát những nét đặc sắc tiêu biểu về nghệ thuật làm nên thành công về nội dung của tác phẩm

    Bình luận
  2. Nguyễn Đình Chiểu là nhà thơ, nhà văn hàng đầu ở Nam Bộ thời kì văn học Trung đại, là ngôi sao sáng của văn học dân tộc. Ông để lại sự nghiệp sáng tác đồ sộ, thể hiện lí tưởng nhân nghĩa và lòng yêu nước sâu sắc. Trong hệ thống tác phẩm đó ta không thể không nhắc đến Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của ông.

    Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc sáng tác trong hoàn cảnh thực dân Pháp nổ súng xâm lược ta, cuộc khởi nghĩa của nghĩa quân Cần Giuộc nổ ra và giành thắng lợi bước đầu. Sau đó giặc phản công dữ dội, 20 nghĩa sĩ bị giết chết. Bấy giờ, tuần phủ Gia Định là Đỗ Quang đã yêu cầu Nguyễn Đình Chiểu viết 1 bài văn tế để đọc trong lễ truy điệu của các nghĩa sĩ Cần Giuộc.

    Mở đầu tác phẩm, Nguyễn Đình Chiểu luận bàn về lẽ sống chết: “Súng giặc đất rền; lòng dân trời tỏ/ Mười năm công vỡ ruộng, chưa ắt còn danh nổi như phao; một trận nghĩa đánh Tây, tuy là mất tiếng vang như mõ”. Tác giả vẽ ra bối cảnh thời đại với nhiều biến cố, bão táp: giặc được trang bị vũ khí tối tân, đã tàn sát biết bao người dân Nam Bộ. Chính trong hoàn cảnh ấy đã thử thách tấm lòng của con người đối với đất nước. Người dân Nam Bộ đã không nề hà sống chết, đem thân mình chiến đấu chống lại kẻ thù. Họ sẵn sàng từ bỏ, hy sinh những gì quý giá nhất (tài sản, tính mạng) để đổi lại danh tiếng, tiếng thơm lưu truyền với muôn đời. Qua đó đã làm sáng tỏ chân lí của thời đại: Chết vinh còn hơn sống nhục.

    Phần tiếp theo của tác phẩm, chân dung hình tượng người nghĩa sĩ nông dân hiện lên vừa mộc mạc, giản dị nhưng đồng thời cũng vô cùng anh dũng kiên cường. Trước khi giặc ngoại xâm đến họ vốn chỉ là những người nông dân vô cùng thuần phác, họ sống cuộc đời bình dị, “cui cút làm ăn” với biết bao lo toan, bộn bề của cuộc sống. Họ chỉ biết đến nơi làng quê nghèo, mà chưa từng biết đến thế giới ngoài kia. Quanh năm suốt tháng những người nông dân ấy bận rộn với công việc nhà nông: “việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm” còn những việc “tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ mắt chưa từng ngó”. Nhưng khi giặc xâm lược đến bờ cõi, đến sự bình yên vốn có, họ sẵn sàng đứng lên, trong họ có sự chuyển biến lớn về nhận thức và tình cảm. Trước hết đó là sự chuyển biến trong tình cảm. Họ đã nghe ngóng “tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng” – tin giặc đến phong thanh họ đã nghe từ lâu. Không chỉ nghe họ còn ngửi thấy cả mùi đấu tranh: “Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm” và cuối cùng họ đã nhìn thấy tận mắt sự xâm lược, độc ác của kẻ thù: “Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ”. Đến lúc này họ đã có những chuyển biến rõ ràng về nhận thức, nếu ban đầu trong những người nông dân ấy vẫn còn có niềm tin vào triều đình, trông chờ vào quân đội “như trời hạn trông mưa” thì đến đây họ đã có nhận thức rõ ràng về nền độc lập và danh dự của tổ quốc; về kẻ thù – những kẻ đi xâm lăng thì không có lí do để tồn tại dưới ánh sáng chính nghĩa và hơn thế họ nhận thấy trách nhiệm của bản thân với đất nước: “Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình, chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ”. Sự chủ động của họ thật oai phong, lẫm liệt đầy dũng khí.

    Trong trận đánh Tây họ không được trang bị binh pháp, chưa một ngày được rèn luyện võ nghệ, trang bị của họ hết sức thô sơ chỉ là những vật dụng sinh hoạt và lao động hàng ngày: “Ngoài cật có một manh áo vải” “trong tay cầm một ngọn tầm vông” “hỏa mai đánh bằng rơm con cúi”,… Ngược lại, địch được trang bị vũ khí tối tân, hơn nữa chúng còn được rèn luyện vô cùng tinh nhuệ: “đạn nhỏ đạn to” “tàu đồng súng nổ”. Sự tương quan lực lượng hai bên đã thấy rõ, nhưng người nghĩa sĩ nông dân vẫn “Đạp rào lướt tới”, “coi giặc cũng như không”, “Xô cửa xông vào liều mình như chẳng có”, “Đâm ngang chém ngược làm cho mã tà ma ní hồn kinh”,… Không hề sợ hãi trước uy lực của kẻ thù. Bằng việc sử dụng liên tiếp các động từ mạnh, nhịp điệu nhanh, gấp gáp tác giả đã vẽ lên khung cảnh chiến trường ác liệt, đồng thời cũng ánh lên vẻ đẹp của người nông dân nghĩa sĩ: hiên ngang, kiên cường, dũng cảm, bất khuất.

    Những vũ khí hiện đại của kẻ thù đã khiến biết bao nghĩa sĩ ngã xuống, gây nên niềm tiếc thương cho toàn thể dân tộc. Tiếng khóc của tác giả, của người thân và của toàn thể non sông dân tộc cho sự hi sinh anh dũng của những con người quả cảm, đó cũng là sự khóc thương cho số phận của người nhà, từ nay sẽ rơi vào vòng nô bộc của kẻ thù. Đồng thời tác giả cũng bộc lộ niềm cảm phục sâu sắc đến những người nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc: “Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh; hơn còn mà chịu chữ đầu Tay, ở với man di rất khổ”. Đoạn thơ không chỉ bày tỏ lòng tiếc thương trước những người đã mất mà còn khẳng định những điều bất tử với thời gian và hướng tới sự tiếp nối của thế hệ tương lai. Bởi vậy câu thơ có bi thương, xót xa nhưng không phải là bi lụy, yếu đuối.

    Những vần thơ cuối cùng đã khẳng định sự bất tử của những nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc trong sự tiếc thương và cảm phục của những người còn lại. Đồng thời biểu dương công trạng xả thân vì nghĩa lớn của các nghĩa sĩ. Đặc biệt trong câu: “Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiêng dân; cây hương nghĩa sĩ thắp thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ” vừa thể hiện được nỗi xót thương và lòng tưởng nhớ những người đã mất vừa tôn vinh công trạng của họ trong sự so sánh ngầm với triều đình.

    Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày, đặc biệt ngôn ngữ đậm màu sắc Nam Bộ. Xây dựng hình tượng nghệ thuật – nghĩa sĩ nông dân chân thực, chi tiết, sinh động, lần đầu tiên người nông dân được xuất hiện đầy đẹp đẽ, trang trọng đến vậy. Kết hợp hài hoà các chi tiết thể hiện tình cảm cảm xúc của người viết, tăng chất trữ tình cho bài văn tế, đồng thời giúp dễ dàng đi vào lòng người đọc.

    Bằng ngôn ngữ giản dị, giàu cảm xúc Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc đã khắc họa thành công bức tượng đài bi tráng, bất tử về người nghĩa sĩ nông dân. Đồng thời qua tác phẩm, Nguyễn Đình Chiểu đã bày tỏ lòng cảm phục cũng như nỗi tiếc thương trước những công trạng và sự hi sinh bất khuất của họ.

    Bình luận

Viết một bình luận