Phân tích hình tượng người nông dân nghĩa sĩ trong văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc
0 bình luận về “Phân tích hình tượng người nông dân nghĩa sĩ trong văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc”
MB:
-dùng câu ” khúc ca của những người thất thế nhg vẫn hiên ngang” ( Nguyễn Đình Thi)
1) cuộc đời của người nghĩa sĩ trước khi có kẻ thù xâm lược
– họ là những người dân ấp dân lân là những con người thuần hậu
+ là những người nông dân nghèo khổ chăm chỉ cần cù nhưng cuộc sống vẫn rất đổi tội nghiệp’ cun cút lm ăn toan lo nghèo khó’
+ cuộc sống nghèo khổ nhg rất bình yên- họ là những người nông dân hiền lành chất phát chưa bh thoát khỏi lũy tre làng
+ Xa lạ với công việc nhà binh
=> trước khi kẻ thù xâm lược họ là những người nông dân thuần hậu đến mức chúng ta thiết nghĩ họ sẽ chẳng bh đảm đương đc vai trò trách nhiệm của 1 người nghĩa sĩ
2) Khi có kẻ thù xâm lược
– Thái độ: + khi mới nghe tin về sự xh của kẻ thù – chỉ dừng lại với sự trông đợi của triều đình -> quan tâm nhất định
+ khi trực tiếp nhìn thấy tội ác của kẻ thù – họ hinhfthanhf cảm xúc căm ghét, khó chịu và thái độ dần đc đẩy lên cao hơn
-> căm thù sâu sắc và mãnh liệt đến mước họ muốn có hđ cụ thể hđ của những người dân nam bộ
– Nhận thức sâu sắc :+ họ nhận thức về đất nước- là 1 đất nước đọc lập có chủ quyền thống nhất và đẹp đẽ-> xuất phát từ niềm tự hào dân tộc từ ty dành cho đất nước
+ đất nước ấy đang bị mất chủ quyền bởi bọn ‘ chém rắn đuổi hưu’ và ‘treo đầu dê bán thịt chó’. Cần đứng lên dành độc lập
– vai trò và trách nhiệm của bản thân
– Vẻ đẹp hào hùng của người nghĩa sĩ trong trận đánh:
+ tương quan về luocj lượng trang bị giữa ta và địch
+ diễn biến và kết quả ( nêu dãn chứng đã đc học)
=> dù có hi sinh thì kết quả của đội quân cần giuộc vẫn là kết quả kỳ diệu và xứng đáng với lòng yêu nước , căm thù giặc vô cùng sâu sắc của những con người của thời đại .
3) Đánh giá
– HÌnh ảnh người nghĩa sĩ cần giuộc – người nông dân lần đầu tiên đc đi vào lịch sử văn học 1 cách trọn vẹn nhất. Họ là những người giản dị bình thường nhg vĩ đại.
Trong văn học, phải đến thế kỉ XIX khi Nguyễn Đình Chiểu – một nhà nho yêu nước dùng con mắt yêu thương và kính phục để viết nên “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” thì hình ảnh người nông dân mới thực sự xuất hiện. Đó là hình tượng đẹp, rất đỗi chân thực và đầy chất bi tráng, vừa hào hùng, vừa đau thương trong cuộc chiến đấu giành độc lập, tự do của đất nước.
Những người nông dân ấy, họ sinh ra đâu phải để làm chàng Gióng Phù Đổng, Lê Lợi, Quang Trung… Họ chỉ là những con người quanh năm khoác trên mình màu áo nâu của đất, bình dị và lam lũ. Nhưng họ xuất hiện trong khung cảnh bão táp của thời đại:Hỡi ôi! Súng giặc đất rền, lòng dân trời tỏ. Họ đâu đã quen nghe tiếng súng. Âm thanh ấy đã phá tan cuộc sống bình lặng của họ. Một cuộc sống từ sáng đến tối bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, một cuộc sống chật vật với những lo toan nghèo khó. Cái nghèo đã làm họ thật nhỏ bé suốt ngày “cui cút làm ăn”… Chỉ một câu văn, cụ Đồ Chiểu đã vẽ nên vòng đời luẩn quẩn không lối thoát của người dân Việt, người “dân ấp dân lân” Nam Bộ, bắt đầu với cui cút, vật lộn làm ăn để cuối cùng vẫn kết thúc trong nghèo khó. Đằng sau luỹ tre làng ấy, họ biết sao được những “cung ngựa”, “trường nhung”… trong cái nhìn của họ chỉ có “con trâu là đầu cơ nghiệp”. Đến việc cuốc, việc cày, bừa đã quá quen thuộc thì giờ tập khiên, tập súng… thật lạ lẫm.
Những tưởng họ mãi cam chịu như thế. Nhưng không, khi quân xâm lược đã xâm chiếm đất nước, chúng đang giày xéo lên từng mảnh ruộng, từng đám đất quê hương ruột thịt của họ. Giờ đây, trong những “lo toan” không chỉ có đói nghèo mà còn là những thấp thỏm, lo âu:
“Tiếng phong hạc phập phồng hơn mười tháng, trông tin quan như trời hạn trông mưa…”
Thấy“mùi tinh chiên vấy vá”không thể chống mắt đứng nhìn, không thể ngồi yên mà đợi. Triều đình đã “bỏ rơi” họ, nhưng làm sao ngăn được tình yêu đất nước nồng nàn ở họ. Bọn xâm lăng kia đã cướp đi những gì máu thịt của họ, chúng phá vỡ giấc bình yên nơi thôn quê, làm sao không căm cho được. Nỗi uất hận đến tột cùng ấy đã biến những con người nhỏ bé tầm thường thành chàng Gióng khổng lồ trong cổ tích. Khi Tổ quốc lầm than, họ không ngần ngại chung vai góp sức. Lòng yêu nước đã biến thành lòng căm thù giặc đến sôi sục:
“Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan. Ngày xem ống khói chạy đen sì muốn ra cắn cổ. Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu. Hai vầng nhật nguyệt chói loà, đâu dung lũ treo dê bán chó”.
Lòng yêu Tổ quốc tha thiết xuất phát từ trái tim đã khiến họ trở nên đẹp đẽ, lấp lánh… Dòng máu Lạc Hồng cuộn chảy trong người cùng với cơn giận của lòng yêu nước mạnh hơn yếu hèn, mạnh hơn cái chết. Khát vọng đánh giặc, khát vọng chiến đấu, khát vọng bảo vệ mảnh đất quê hương đã thôi thúc họ, mặc việc “đợi tập rèn”, “ban võ nghệ”, “bày bố binh thư”, không màng tới trên mình chỉ có “một manh áo vải”. Các chàng Gióng của thế kỉ XIX đã đến, “đạp rào lướt tới”, coi giặc cũng như không.
Hỡi ôi, “một manh áo vải”, “một ngọn tầm vông”, chỉ có “lưỡi dao phay”, “rơm con cúi”, liệu có thể thắng được “tàu chiến tàu đồng”, “đạn nhỏ đạn to”. Đó là bi kịch của nghĩa sĩ Cần Giuộc hay chăng là tấn bi kịch của thời kì nghiệt ngã ấy. Họ là nông dân nhưng lại làm kinh ngạc cả chiến trường. Phải chăng cũng vì lẽ đó mà bản hùng ca đã cất lên trong tiếng nấc lòng. Có thể trận mạc đã vĩnh viễn cướp đi cuộc sống của họ, nhưng tinh thần xả thân vì nghĩa đã bù đắp cho sự thiếu hụt về lực lượng, chênh lệch với kẻ thù.
“Chi nhọc quan quản Gióng trống kì trống giục…. súng nổ”
Hình tượng của người nghĩa sĩ áo vải được khắc nổi trên cảnh u ám khói bom ấy: những âm thanh vang động (hè trước, ó sau…) những động tác quyết liệt (đốt, chém…). Những người nghĩa sĩ áo vải đã trở thành đấng anh hùng của một thời kì đáng nhớ. Trong tư thế quật cường ấy, lấp lánh chân dung của những con người gánh trên vai vận mệnh của non sông. Họ biết rằng mình chỉ là vô danh trong dân tộc anh hùng nhưng điều cao cả nhất họ để lại là triết lí sống phù hợp đến muôn đời:
“Thà thác mà đặng câu định khái, về theo tổ phụ cũng vinh, hơn còn mà chịu chữ đầu Tây ở với man di rất khổ”
Tinh thần ấy, ý chí ấy vẫn chói lòa trong mỗi người dân Cần Giuộc. Sống để chịu nô lệ, tay sai của Tây thì thà một lần chiến đấu hết mình mà đem vinh quang cho dân tộc.
“Ôi thôi thôi!”
Một tiếng khóc đầy ai oán, tiếng khóc đến quặn lòng, tiếng khóc để tiễn biệt những người con Cần Giuộc mãi mãi nằm lại trên mảnh đất quê hương. Họ ngã xuống nơi chiến trường khói lửa. Vẫn còn đó nghiệp nước chưa thành, thấp thoáng nơi đây bóng mẹ già với ngọn đèn le lói trong đêm
“Đau đớn bây! Mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều! Vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ”
Người tử sĩ đã về chốn thiên cổ để lại giữa trần gian mẹ già, vợ yếu, con thơ… Mai đây họ sẽ ra sao khi cái nghèo vẫn còn đeo đuổi, khi mà nợ nước trả chưa xong..
“Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo thương vì hai chữ thiên dân, cây hương nghĩa sĩ thắp đèn thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ”
Nguyễn Đình Chiểu đã bằng tấm lòng đồng cảm để nhìn thấy, nghe thấy và dựng nên một tượng đài hoành tráng mà mộc mạc, yêu thương. Xuyên suốt trong nền văn học nước nhà hình ảnh người nông dân đã được đề cập khá nhiều lần. Nhưng trước Đồ Chiểu thì chưa một ai công khai vẽ lên và ngợi ca hình ảnh người anh hùng “chẳng qua là dân ấp dân lân mến nghĩa làm quân chiêu mộ”. Hơn thế nữa, việc thổi vào văn chương chất dân gian đã khiến “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của cụ trở thành áng văn vừa hào hùng, bi tráng mà cũng rất gần gũi, giản dị.
Cụ Đồ Chiểu chỉ là nhà thơ mù – “người hát rong của nhân dân”. Nhưng hình ảnh người nông dân khởi nghĩa trong bài văn tế đã cho ta cái nhìn về cả một thời đại. Tự hào thay những con người nhỏ bé nhưng vẫn hiên ngang trước thế lực bạo tàn. Tự hào thay những người dân, người lính, nghĩa sĩ vô danh trùng trùng điệp điệp ngã xuống để bảo vệ sự toàn vẹn cho non sông. Họ là bức tượng đài bất tử, lưu mãi tới muôn đời.
MB:
-dùng câu ” khúc ca của những người thất thế nhg vẫn hiên ngang” ( Nguyễn Đình Thi)
1) cuộc đời của người nghĩa sĩ trước khi có kẻ thù xâm lược
– họ là những người dân ấp dân lân là những con người thuần hậu
+ là những người nông dân nghèo khổ chăm chỉ cần cù nhưng cuộc sống vẫn rất đổi tội nghiệp’ cun cút lm ăn toan lo nghèo khó’
+ cuộc sống nghèo khổ nhg rất bình yên- họ là những người nông dân hiền lành chất phát chưa bh thoát khỏi lũy tre làng
+ Xa lạ với công việc nhà binh
=> trước khi kẻ thù xâm lược họ là những người nông dân thuần hậu đến mức chúng ta thiết nghĩ họ sẽ chẳng bh đảm đương đc vai trò trách nhiệm của 1 người nghĩa sĩ
2) Khi có kẻ thù xâm lược
– Thái độ: + khi mới nghe tin về sự xh của kẻ thù – chỉ dừng lại với sự trông đợi của triều đình -> quan tâm nhất định
+ khi trực tiếp nhìn thấy tội ác của kẻ thù – họ hinhfthanhf cảm xúc căm ghét, khó chịu và thái độ dần đc đẩy lên cao hơn
-> căm thù sâu sắc và mãnh liệt đến mước họ muốn có hđ cụ thể hđ của những người dân nam bộ
– Nhận thức sâu sắc :+ họ nhận thức về đất nước- là 1 đất nước đọc lập có chủ quyền thống nhất và đẹp đẽ-> xuất phát từ niềm tự hào dân tộc từ ty dành cho đất nước
+ đất nước ấy đang bị mất chủ quyền bởi bọn ‘ chém rắn đuổi hưu’ và ‘treo đầu dê bán thịt chó’. Cần đứng lên dành độc lập
– vai trò và trách nhiệm của bản thân
– Vẻ đẹp hào hùng của người nghĩa sĩ trong trận đánh:
+ tương quan về luocj lượng trang bị giữa ta và địch
+ diễn biến và kết quả ( nêu dãn chứng đã đc học)
=> dù có hi sinh thì kết quả của đội quân cần giuộc vẫn là kết quả kỳ diệu và xứng đáng với lòng yêu nước , căm thù giặc vô cùng sâu sắc của những con người của thời đại .
3) Đánh giá
– HÌnh ảnh người nghĩa sĩ cần giuộc – người nông dân lần đầu tiên đc đi vào lịch sử văn học 1 cách trọn vẹn nhất. Họ là những người giản dị bình thường nhg vĩ đại.
4) Kết bài
Mình chỉ có cái dàn ý này thôi bạn tham khảo nhé!
HỌC TỐT!
Trong văn học, phải đến thế kỉ XIX khi Nguyễn Đình Chiểu – một nhà nho yêu nước dùng con mắt yêu thương và kính phục để viết nên “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” thì hình ảnh người nông dân mới thực sự xuất hiện. Đó là hình tượng đẹp, rất đỗi chân thực và đầy chất bi tráng, vừa hào hùng, vừa đau thương trong cuộc chiến đấu giành độc lập, tự do của đất nước.
Những người nông dân ấy, họ sinh ra đâu phải để làm chàng Gióng Phù Đổng, Lê Lợi, Quang Trung… Họ chỉ là những con người quanh năm khoác trên mình màu áo nâu của đất, bình dị và lam lũ. Nhưng họ xuất hiện trong khung cảnh bão táp của thời đại: Hỡi ôi! Súng giặc đất rền, lòng dân trời tỏ. Họ đâu đã quen nghe tiếng súng. Âm thanh ấy đã phá tan cuộc sống bình lặng của họ. Một cuộc sống từ sáng đến tối bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, một cuộc sống chật vật với những lo toan nghèo khó. Cái nghèo đã làm họ thật nhỏ bé suốt ngày “cui cút làm ăn”… Chỉ một câu văn, cụ Đồ Chiểu đã vẽ nên vòng đời luẩn quẩn không lối thoát của người dân Việt, người “dân ấp dân lân” Nam Bộ, bắt đầu với cui cút, vật lộn làm ăn để cuối cùng vẫn kết thúc trong nghèo khó. Đằng sau luỹ tre làng ấy, họ biết sao được những “cung ngựa”, “trường nhung”… trong cái nhìn của họ chỉ có “con trâu là đầu cơ nghiệp”. Đến việc cuốc, việc cày, bừa đã quá quen thuộc thì giờ tập khiên, tập súng… thật lạ lẫm.
Những tưởng họ mãi cam chịu như thế. Nhưng không, khi quân xâm lược đã xâm chiếm đất nước, chúng đang giày xéo lên từng mảnh ruộng, từng đám đất quê hương ruột thịt của họ. Giờ đây, trong những “lo toan” không chỉ có đói nghèo mà còn là những thấp thỏm, lo âu:
“Tiếng phong hạc phập phồng hơn mười tháng, trông tin quan như trời hạn trông mưa…”
Thấy “mùi tinh chiên vấy vá” không thể chống mắt đứng nhìn, không thể ngồi yên mà đợi. Triều đình đã “bỏ rơi” họ, nhưng làm sao ngăn được tình yêu đất nước nồng nàn ở họ. Bọn xâm lăng kia đã cướp đi những gì máu thịt của họ, chúng phá vỡ giấc bình yên nơi thôn quê, làm sao không căm cho được. Nỗi uất hận đến tột cùng ấy đã biến những con người nhỏ bé tầm thường thành chàng Gióng khổng lồ trong cổ tích. Khi Tổ quốc lầm than, họ không ngần ngại chung vai góp sức. Lòng yêu nước đã biến thành lòng căm thù giặc đến sôi sục:
“Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan. Ngày xem ống khói chạy đen sì muốn ra cắn cổ. Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu. Hai vầng nhật nguyệt chói loà, đâu dung lũ treo dê bán chó”.
Lòng yêu Tổ quốc tha thiết xuất phát từ trái tim đã khiến họ trở nên đẹp đẽ, lấp lánh… Dòng máu Lạc Hồng cuộn chảy trong người cùng với cơn giận của lòng yêu nước mạnh hơn yếu hèn, mạnh hơn cái chết. Khát vọng đánh giặc, khát vọng chiến đấu, khát vọng bảo vệ mảnh đất quê hương đã thôi thúc họ, mặc việc “đợi tập rèn”, “ban võ nghệ”, “bày bố binh thư”, không màng tới trên mình chỉ có “một manh áo vải”. Các chàng Gióng của thế kỉ XIX đã đến, “đạp rào lướt tới”, coi giặc cũng như không.
Hỡi ôi, “một manh áo vải”, “một ngọn tầm vông”, chỉ có “lưỡi dao phay”, “rơm con cúi”, liệu có thể thắng được “tàu chiến tàu đồng”, “đạn nhỏ đạn to”. Đó là bi kịch của nghĩa sĩ Cần Giuộc hay chăng là tấn bi kịch của thời kì nghiệt ngã ấy. Họ là nông dân nhưng lại làm kinh ngạc cả chiến trường. Phải chăng cũng vì lẽ đó mà bản hùng ca đã cất lên trong tiếng nấc lòng. Có thể trận mạc đã vĩnh viễn cướp đi cuộc sống của họ, nhưng tinh thần xả thân vì nghĩa đã bù đắp cho sự thiếu hụt về lực lượng, chênh lệch với kẻ thù.
“Chi nhọc quan quản Gióng trống kì trống giục…. súng nổ”
Hình tượng của người nghĩa sĩ áo vải được khắc nổi trên cảnh u ám khói bom ấy: những âm thanh vang động (hè trước, ó sau…) những động tác quyết liệt (đốt, chém…). Những người nghĩa sĩ áo vải đã trở thành đấng anh hùng của một thời kì đáng nhớ. Trong tư thế quật cường ấy, lấp lánh chân dung của những con người gánh trên vai vận mệnh của non sông. Họ biết rằng mình chỉ là vô danh trong dân tộc anh hùng nhưng điều cao cả nhất họ để lại là triết lí sống phù hợp đến muôn đời:
“Thà thác mà đặng câu định khái, về theo tổ phụ cũng vinh, hơn còn mà chịu chữ đầu Tây ở với man di rất khổ”
Tinh thần ấy, ý chí ấy vẫn chói lòa trong mỗi người dân Cần Giuộc. Sống để chịu nô lệ, tay sai của Tây thì thà một lần chiến đấu hết mình mà đem vinh quang cho dân tộc.
“Ôi thôi thôi!”
Một tiếng khóc đầy ai oán, tiếng khóc đến quặn lòng, tiếng khóc để tiễn biệt những người con Cần Giuộc mãi mãi nằm lại trên mảnh đất quê hương. Họ ngã xuống nơi chiến trường khói lửa. Vẫn còn đó nghiệp nước chưa thành, thấp thoáng nơi đây bóng mẹ già với ngọn đèn le lói trong đêm
“Đau đớn bây! Mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều! Vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ”
Người tử sĩ đã về chốn thiên cổ để lại giữa trần gian mẹ già, vợ yếu, con thơ… Mai đây họ sẽ ra sao khi cái nghèo vẫn còn đeo đuổi, khi mà nợ nước trả chưa xong..
“Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo thương vì hai chữ thiên dân, cây hương nghĩa sĩ thắp đèn thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ”
Nguyễn Đình Chiểu đã bằng tấm lòng đồng cảm để nhìn thấy, nghe thấy và dựng nên một tượng đài hoành tráng mà mộc mạc, yêu thương. Xuyên suốt trong nền văn học nước nhà hình ảnh người nông dân đã được đề cập khá nhiều lần. Nhưng trước Đồ Chiểu thì chưa một ai công khai vẽ lên và ngợi ca hình ảnh người anh hùng “chẳng qua là dân ấp dân lân mến nghĩa làm quân chiêu mộ”. Hơn thế nữa, việc thổi vào văn chương chất dân gian đã khiến “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của cụ trở thành áng văn vừa hào hùng, bi tráng mà cũng rất gần gũi, giản dị.
Cụ Đồ Chiểu chỉ là nhà thơ mù – “người hát rong của nhân dân”. Nhưng hình ảnh người nông dân khởi nghĩa trong bài văn tế đã cho ta cái nhìn về cả một thời đại. Tự hào thay những con người nhỏ bé nhưng vẫn hiên ngang trước thế lực bạo tàn. Tự hào thay những người dân, người lính, nghĩa sĩ vô danh trùng trùng điệp điệp ngã xuống để bảo vệ sự toàn vẹn cho non sông. Họ là bức tượng đài bất tử, lưu mãi tới muôn đời.