Phân tích khổ 1,2 bài thơ Mùa Xuân Nho Nhỏ ,cảm ơn các bạn
Tặng 50đ luôn á
0 bình luận về “Phân tích khổ 1,2 bài thơ Mùa Xuân Nho Nhỏ ,cảm ơn các bạn
Tặng 50đ luôn á”
KHỔ 1:
Khổ thơ đầu trong bài thơ Mùa xuân nho nhỏ là cảm xúc của nhà thơ Hữu Thỉnh trước vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên đất trời:
Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Vẻ đẹp mùa xuân thiên nhiên xứ Huế được khắc họa bằng một vài nét đơn sơ,bình dị và rất nên thơ. Bức tranh xuân được mở ra cả chiều rộng và chiều cao với các hình ảnh: dòng sông bông hoa và cánh chim. Đó là không gian khoáng đạt từ mặt đất đến bầu trời bao la. Sắc xanh của dòng sông, sắc tím của bông hoa tạo nên nét tươi tắn, hài hòa mà lung linh ngời sáng, đây cũng là sắc màu gợi vẻ đẹp dịu dàng, kín đáo mà thơ mộng của Huế. Mùa xuân xứ Huế như đang dâng tràn sức sống ngay trong câu thơ đầu tiên. Nhà thơ đã sử dụng rất thành công nghệ thuật đảo ngữ từ “mọc” được đào lên đầu câu tô đậm sức sống mạnh mẽ của mùa xuân. Dường như xuân vừa đến, mầm cây liền vươn lên mặt nước rồi xòe những bông hoa phô màu tím biếc đẹp lung linh. Bức tranh thiên nhiên xứ Huế càng trở nên rộn rã, tươi vui bởi âm thanh tiếng chim chiền chiện – tiếng chim sơn ca xứ Huế làm xáo động cả bầu trời xuân, làm xao xuyến cả tấm lòng thi nhân. Cảm xúc của nhà thơ được thể hiện rõ nét trong những câu thơ tiếp theo. Các từ “ơi”, “chi” trong lời trò chuyện đã thể hiện sự trìu mến của nhà thơ trước cảnh vật. Cảm xúc của nhà thơ được thể hiện rõ nét nhất trong hai câu thơ giàu chất tạo hình : “Từng giọt long lanh rơi/ Tôi đưa tay tôi hứng”. Hình ảnh “giọt long lanh” rơi khiến câu thơ lung linh và đa nghĩa. Đó có thể là giọt sương mùa xuân trong trẻo, còn nếu hiểu theo mối quan hệ với hai câu thơ trên thì đây chính là giọt âm thanh. Tiếng chim chiền chiện vang vọng trong không gian và kết đọng từng giọt trong vắt. Tiếng chim được cảm nhận bằng thị giác, thính giác và xúc giác. Nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác được sử dụng thật tài tình. Đại từ “tôi” cùng với động từ “hứng” cho thấy sự chủ động đón nhận và thái độ trân trọng, nâng niu, cảm xúc say sưa, ngây ngất của nhà thơ.
KHỔ 2:
Khổ thơ thứ hai của bài thơ Mùa xuân nho nhỏ là cảm xúc của nhà thơ Hữu Thỉnh trước vẻ đẹp của đất nước:
Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao
Mở đầu là những con người làm nên lịch sử, làm nên mùa xuân. Nhà thơ đã tạo ra hai cặp câu thơ sóng đôi nói về hai lớp người chủ yếu của cách mạng với hai nhiệm vụ cơ bản: chiến đấu bảo vệ tổ quốc và lao động xây dựng đất nước. Đây là những con người làm nên mùa xuân. Vẻ đẹp mùa xuân đất nước được mở ra với một không gian rộng lớn từ tiền tuyến đến hậu phương. Trong không gian ấy là hình ảnh, là sắc màu của chồi non, lộc biếc. “Lộc” được dùng với hai lớp nghĩa, trước hết đó là chồi non, là sắc xanh của vòm lá ngụy trang, của những nương mạ trải dài theo người ra đồng. “Lộc” còn là hình ảnh ẩn dụ cho sức sống cho thế vươn lên, cho những giá trị tốt đẹp của đất nước. Các điệp từ “mùa xuân”, “lộc” gợi khung cảnh mùa xuân tươi đẹp. Các từ “giắt đầy” và “trải dài” gợi một màu xanh bất tận, gợi sức sống đang dâng trào trên khắp mọi nẻo đường của đất nước. Sắc xuân, sức xuân của dân tộc đang phơi phới. Mùa xuân đất nước đẹp và tràn đầy sức sống. Vang âm của bản hòa ca đất nước được thể hiện trong hai câu thơ: “Tất cả như hối hả/ Tất cả như xôn xao”. Từ láy và lối so sánh trực tiếp cùng với nhịp thơ nhanh, mạnh đã gợi không khí khẩn trương trong công cuộc xây dựng đất nước. Từ láy “xôn xao” vừa gợi không khí, vừa gợi cái náo nức, vừa gợi tiếng lòng như reo vui của mỗi con người. Hai câu thơ đã diễn tả rất thành công nhịp điệu của mùa xuân đất nước.
KHỔ 1:
Khổ thơ đầu trong bài thơ Mùa xuân nho nhỏ là cảm xúc của nhà thơ Hữu Thỉnh trước vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên đất trời:
Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Vẻ đẹp mùa xuân thiên nhiên xứ Huế được khắc họa bằng một vài nét đơn sơ,bình dị và rất nên thơ. Bức tranh xuân được mở ra cả chiều rộng và chiều cao với các hình ảnh: dòng sông bông hoa và cánh chim. Đó là không gian khoáng đạt từ mặt đất đến bầu trời bao la. Sắc xanh của dòng sông, sắc tím của bông hoa tạo nên nét tươi tắn, hài hòa mà lung linh ngời sáng, đây cũng là sắc màu gợi vẻ đẹp dịu dàng, kín đáo mà thơ mộng của Huế. Mùa xuân xứ Huế như đang dâng tràn sức sống ngay trong câu thơ đầu tiên. Nhà thơ đã sử dụng rất thành công nghệ thuật đảo ngữ từ “mọc” được đào lên đầu câu tô đậm sức sống mạnh mẽ của mùa xuân. Dường như xuân vừa đến, mầm cây liền vươn lên mặt nước rồi xòe những bông hoa phô màu tím biếc đẹp lung linh. Bức tranh thiên nhiên xứ Huế càng trở nên rộn rã, tươi vui bởi âm thanh tiếng chim chiền chiện – tiếng chim sơn ca xứ Huế làm xáo động cả bầu trời xuân, làm xao xuyến cả tấm lòng thi nhân. Cảm xúc của nhà thơ được thể hiện rõ nét trong những câu thơ tiếp theo. Các từ “ơi”, “chi” trong lời trò chuyện đã thể hiện sự trìu mến của nhà thơ trước cảnh vật. Cảm xúc của nhà thơ được thể hiện rõ nét nhất trong hai câu thơ giàu chất tạo hình : “Từng giọt long lanh rơi/ Tôi đưa tay tôi hứng”. Hình ảnh “giọt long lanh” rơi khiến câu thơ lung linh và đa nghĩa. Đó có thể là giọt sương mùa xuân trong trẻo, còn nếu hiểu theo mối quan hệ với hai câu thơ trên thì đây chính là giọt âm thanh. Tiếng chim chiền chiện vang vọng trong không gian và kết đọng từng giọt trong vắt. Tiếng chim được cảm nhận bằng thị giác, thính giác và xúc giác. Nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác được sử dụng thật tài tình. Đại từ “tôi” cùng với động từ “hứng” cho thấy sự chủ động đón nhận và thái độ trân trọng, nâng niu, cảm xúc say sưa, ngây ngất của nhà thơ.
KHỔ 2:
Khổ thơ thứ hai của bài thơ Mùa xuân nho nhỏ là cảm xúc của nhà thơ Hữu Thỉnh trước vẻ đẹp của đất nước:
Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao
Mở đầu là những con người làm nên lịch sử, làm nên mùa xuân. Nhà thơ đã tạo ra hai cặp câu thơ sóng đôi nói về hai lớp người chủ yếu của cách mạng với hai nhiệm vụ cơ bản: chiến đấu bảo vệ tổ quốc và lao động xây dựng đất nước. Đây là những con người làm nên mùa xuân. Vẻ đẹp mùa xuân đất nước được mở ra với một không gian rộng lớn từ tiền tuyến đến hậu phương. Trong không gian ấy là hình ảnh, là sắc màu của chồi non, lộc biếc. “Lộc” được dùng với hai lớp nghĩa, trước hết đó là chồi non, là sắc xanh của vòm lá ngụy trang, của những nương mạ trải dài theo người ra đồng. “Lộc” còn là hình ảnh ẩn dụ cho sức sống cho thế vươn lên, cho những giá trị tốt đẹp của đất nước. Các điệp từ “mùa xuân”, “lộc” gợi khung cảnh mùa xuân tươi đẹp. Các từ “giắt đầy” và “trải dài” gợi một màu xanh bất tận, gợi sức sống đang dâng trào trên khắp mọi nẻo đường của đất nước. Sắc xuân, sức xuân của dân tộc đang phơi phới. Mùa xuân đất nước đẹp và tràn đầy sức sống. Vang âm của bản hòa ca đất nước được thể hiện trong hai câu thơ: “Tất cả như hối hả/ Tất cả như xôn xao”. Từ láy và lối so sánh trực tiếp cùng với nhịp thơ nhanh, mạnh đã gợi không khí khẩn trương trong công cuộc xây dựng đất nước. Từ láy “xôn xao” vừa gợi không khí, vừa gợi cái náo nức, vừa gợi tiếng lòng như reo vui của mỗi con người. Hai câu thơ đã diễn tả rất thành công nhịp điệu của mùa xuân đất nước.
XIN CTLHN