Phân tích lý luận về hàng hóa sức lao động và ý nghĩa của việc nghiên hàng hóa sức lao động?

By Camila

Phân tích lý luận về hàng hóa sức lao động và ý nghĩa của việc nghiên hàng hóa sức lao động?

0 bình luận về “Phân tích lý luận về hàng hóa sức lao động và ý nghĩa của việc nghiên hàng hóa sức lao động?”

  1. Kinh tế chính trị Mác – Lênin là môn học khái quát nhiều vấn đề cơ bản nhất trong học thuyết kinh tế chính trị mác- xít, mang tính trừu tượng cao, trữ lượng kiến thức lớn, gắn bó chặt chẽ với thực tiễn sinh động đang thay đổi hàng ngày. Lý luận hàng hoá sức lao động là một trong những nội dung quan trọng trong học thuyết kinh tế của C.Mác. Kế thừa có sáng tạo những quan điểm của các nhà kinh tế học cổ điển về lý lụân lao động, C.Mác đã nghiên cứu, xây dựng lý luận hàng hoá sức lao động (HHSLĐ), C.Mác đã vạch rõ nguồn gốc của giá trị thặng dư, bản chất, mục đích của nền sản xuất hàng hoá TBCN. Đồng thời khám phá ra quy luật chi phối sự vận động, phát triển của CNTB. Như vậy, lý luận HHSLĐ được C.Mác xây dựng trong nền kinh tế thị trường TBCN. Việt Nam đang trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, nền kinh tế này có sự khác biệt về chất so với nền kinh tế thị trường TBCN. Thông qua việc giảng dạy môn kinh tế chính trị người giảng viên cần làm rõ sự khác biệt về chất giữa nền kinh tế thị trường TBCN và nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đồng thời chỉ ra những nội dung cần vận dụng trong lý luận HHSLĐ của C.Mác vào thực tiễn phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay . Bài viết xin được đề cập một số nội dung mà giảng viên cần làm rõ sự vận dụng giữa lý luận và thực tiễn về lý luận hàng hoá sức lao động của C. Mác mà thời gian qua Đảng và Nhà nước ta đã làm: Thứ nhất, về điều kiện xuất hiện hàng hoá sức lao động, theo C. Mác sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong một cơ thể, trong một con người đang sống, và được người đó vận dụng mỗi khi đem sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó [, tr 251]. Sức lao động luôn có sẵn trong bất kỳ xã hội nào, nó không phụ thuộc vào hình thái xã hội. Tuy nhiên, chỉ trong một trình độ phát triển nhất định thì sức lao động mới trở thành hàng hoá. Đó là lúc xuất hiện hai điều kiện cơ bản: Một là, người có sức lao động phải được tự do về thân thể. Điều kiện này giúp họ có quyền quyết định đối với sức lao động của bản thân mình. Hai là, người lao động không có vốn liếng hay tư liệu sản xuất, tài sản duy nhất đảm bảo sự sống của họ chỉ là sức lao động. Vận dụng lý luận của C. Mác lý giải sự xuất hiện hàng hoá sức lao động ở nước ta cần phải có sự nhận thức mới, đặc biệt là đối với điều kiện sở hữu tư liệu sản xuất. Về điều kiện người lao động không có tư liệu sản xuất, muốn sống buộc phải bán sức lao động đã có sự biểu hiện mới. Đó là khi đời sống của công nhân lên cao, họ có tích luỹ và mua được cổ phiếu của công ty cổ phần và như vậy họ trở thành người chủ một phần phần vốn của công ty, chủ một phần tư liệu sản xuất và lao động thặng dư của họ được bồi hoàn lại, những người lao động này không phải không có tư liệu sản xuất, do vậy lao động của họ có tính chất hàng hoá, chứ không phải hàng hoá sức lao động theo đúng nguyên nghĩa mà C. Mác đã định nghĩa. Trường hợp này tồn tại trong thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể. Trong các thành phần kinh tế này, người lao động đều là người làm chủ tập thể tư liệu sản xuất, do vậy sức lao động của họ không phải là hàng hoá. Nhưng trong nền kinh tế thị trường, việc đánh giá sự cống hiến của người lao động vẫn phải dựa vào hình thức tiền lương. Tiền lương là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá sức lao động. Do đó, sức lao động của người lao động trong thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể phải được coi là hàng hoá để tính toán tiền lương theo mặt bằng tiền lương chung của toàn xã hội. Bởi đã là tiền lương trong nền kinh tế thị trường thì phải phản ánh giá trị hàng hoá sức lao động. Mặt khác, trong thời đại khoa học- kỹ thuật phát triển mạnh mẽ như hiện nay, công nhân còn sở hữu một vốn quý mà vào thế kỷ XIX, những người lao động làm thuê không có được, đó là sở hữu trí tuệ. Chính C. Mác đã dự báo điều này khi nói về vai trò của lao động trí óc ngày càng tăng trong nền kinh tế và tiên đoán khoa học sẽ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Điều này cho thấy người lao động trong nền kinh tế thị trường hiện nay không hẳn là người mất hết tư liệu sản xuất, hoặc không có một chút tài sản gì. Cho dù người lao động không mua được cổ phiếu, không có sở hữu tư liệu sản xuất, thì họ vẫn có thể có sở hữu trí tuệ. Về điều kiện người lao động được tự do về thân thể. Khi phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta, điều kiện này, đã được Hiến Pháp 1992, sửa đổi bổ sung năm 2000 và Bộ luật Lao động thừa nhận. Điều 57 của Hiến Pháp sửa đổi bổ sung năm 2000 thừa nhận mọi công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật. Điều 68 của Hiến pháp cho phép công dân được tự do đi lại và cư trú ở trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước theo quy định của pháp luật. Như vậy, Hiến pháp 2000 đã tạo điều kiện cho người sử dụng lao động được tự do thuê lao động và người lao động được tự do di chuyển để tìm việc làm phù hợp. Điều 5 của Bộ luật Lao động cũng cho phép mọi người có quyền làm việc, tự do lựa chọn việc làm và nghề nghiệp, học nghề và nâng cao trình độ nghề nghiệp. Điều 9 của Bộ luật Lao động xác lập quan hệ bình đẳng, hợp tác, tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp giữa người sử dụng lao động và người lao động. Thứ hai, về hai thuộc tính của hàng hoá sức lao động: giá trị và giá trị sử dụng Giá trị sức lao động được quyết định bởi thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động. Nhưng sức lao động chỉ tồn tại như năng lực con người sống, muốn tái sản xuất ra năng lực đó, người công nhân phải tiêu dùng một lượng tư liệu sinh hoạt nhất định. Giá trị hàng hoá sức lao động có hình thức biểu hiện của nó là tiền công. Trong nền kinh tế hàng hoá, việc sức lao động trở thành hàng hoá tạo điều kiện cho giá trị sức lao động chuyển hoá thành tiền công. Vì vậy, bản chất của tiền công trong nền kinh tế hàng hoá không phải là giá cả của lao động mà là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá sức lao động, là giá cả của hàng hoá sức lao động. Như vậy, lý luận về giá trị hàng hoá sức lao động cung cấp cơ sở lý luận để xác định tiền công: lao động có chất lượng cao sẽ được nhận lương cao. Giá cả sức lao động là biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động, đó chính là tiền lương mà người sử dụng sức lao động trả cho người lao động. Vận dụng lý luận của C.Mác về giá cả sức lao động vào nền nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Đảng và Nhà nước ta đã từng bước hoàn thiện chính sách tiền lương. Chính sách tiền lương đang ngày càng được tiền tệ hoá và phản ánh gần sát hơn với giá trị sức lao động. Giá trị sử dụng của sức lao động là tính có ích của sức lao động, thoả mãn nhu cầu của người mua, tức nhà tư bản, sử dụng vào trong quá trình sản xuất. Nhà tư bản cần có sức lao động của người công nhân kết hợp với tư liệu sản xuất của mình để tạo ra các giá trị sử dụng, tạo ra các hàng hoá. Chính vì vậy mà tính có ích của sức lao động chỉ được thể hiện trong quá trình sản xuất. Người lao động bán sức lao động bằng cách lao động sản xuất theo yêu cầu của người mua. Người mua tiêu dùng sức lao động là nhằm sử dụng tính có ích của sức lao động. Khác với hàng hoá thông thường, khi được sử dụng, sức lao động tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân nó. “Nhưng cái có ý nghĩa quyết định là giá trị sử dụng đặc biệt của thứ hàng hoá đó là cái đặc tính của nó, là cái nguồn gốc sinh ra giá trị, hơn nữa lại sinh ra một giá trị lớn hơn bản thân nó. Đó là sự phục vụ đặc biệt mà nhà tư bản mong chờ” [, tr289-290]. Giá trị sử dụng của sức lao động phụ thuộc vào nhiều yếu tố như trình độ phát triển kinh tế của quốc gia, năng suất lao động, giáo dục- đào tạo và nhiều yếu tố khác trong đó giáo dục- đào tạo giữ vai trò quyết định đến trình độ nghề nghiệp của mỗi người. Trình độ giáo dục càng cao thì giá trị sử dụng của sức lao động càng lớn. Vận dụng lý luận về giá trị sử dụng của sức lao động Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã coi giáo dục- đào tạo và khoa học- công nghệ là quốc sách hàng đầu Thứ ba, về thị trường sức lao động, C. Mác chỉ rõ thị trường sức lao động là nơi diễn ra quan hệ mua bán hàng hoá sức lao động giữa người sử dụng lâo động và người lao động, là nơi gặp gỡ giữa cung và cầu về hàng hoá sức lao động “ …Tư bản chỉ phát sinh ở nơi nào mà người chủ tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt tìm thấy được người lao động tự do với tư cách là người bán sức lao động của mình trên thị trường” (tr255). Việc thừa nhận sự tồn tại khách quan của HHSLĐ và thị trường sức lao động đã giúp cho Nhà nước ta có những chủ trương đúng đắn trong việc phát triển các hình thức kinh tế khác nhau, nhiều mô hình việc làm mới đã xuất hiện nhằm tạo ra sức cầu về HHSLĐ. Bên cạnh đó, những biện pháp để nâng cao chất lượng nguồn cung HHSLĐ cũng được chú ý nhiều hơn. Cung và cầu về HHSLĐ phải được gặp gỡ nhau, để tạo được sự gặp gỡ này cần phải thông qua hệ thống thông tin lao động việc làm. Vận dụng lý luận của C.Mác về sự xác lập mối quan hệ cung cầu về HHSLĐ, Đảng và Nhà nước ta đã chú trọng việc hình thành và phát triển hệ thống thông tin lao động việc làm, các hội chợ việc làm nhằm giúp cho người lao động và người sử dụng lao động gặp gỡ nhau, góp phần giải quyết tình trạng thất nghiệp. Trong lý luận HHSLĐ, C.Mác cũng chỉ rõ quan hệ lao động trong nền sản xuất TBCN là quan hệ bóc lột. Nhưng quan hệ này cũng chịu sự sự quản lý của Nhà nước và sự can thiệp của các tổ chức công đoàn. Vận dụng lý luận này, Nhà nước ta đã xây dựng và từng bước hoàn thiện Bộ luật Lao động, chính sách bảo hiểm xã hội và các chính sách kinh tế- xã hội khác nhằm đảm bảo quyền lợi cho cả người lao động và người sử dụng lao động. Các tổ chức công đoàn được sự quan tâm tạo điều kiện của Nhà nước đang từng bước phát huy vai trò của mình trong việc thúc đẩy hình thành quan hệ lao động bình đẳng trong các loại hình doanh nghiệp. Trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, Nhà nước trực tiếp điều hành toàn bộ kế hoạch sản xuất và phân phối sản phẩm, vì thế không tránh khỏi việc tranh giành độc quyền cho một số ít người, làm xuất hiện tha hoá lao động: tầng lớp quan liêu đặc quyền, đặc lợi lớn dần còn người lao động phải chịu đựng chủ nghĩa bính quân và họ đã thờ ơ trong sản xuất và nghĩa vụ công dân, phân hoá giàu nghèo ngày càng rõ nét. Vận dụng lý luận của C.Mác về điều kiện và biện pháp giảm tha hoá lao động, Nhà nước ta chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, xây dựng công ty cổ phần để gắn kết quyền lợi của người lao động với hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần. Qúa trình cổ phần hoá ngày càng được đẩy mạnh và đã có những đóng góp tích cực trong việc giảm tha hoá lao động ở nước ta. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, việc vận dụng lý luận HHSLĐ vào nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta vẫn còn những tồn tại. Do chưa nhận thức đầy đủ về hai thuộc tính của HHSLĐ nên khả năng cạnh tranh của HHSLĐ Việt Nam trên thị trường sức lao động còn hạn chế. Các chính sách về giáo dục- đào tạo, khoa học- công nghệ, chính sách đào tạo nghề chưa giúp nâng cao giá trị sử dụng của HHSLĐ theo yêu cầu của nền kinh tế thị trường. Với khả năng đặc biệt của HHSLĐ là tạo ra một giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân nó chưa được chú trọng phát huy đúng mức, Nhà nước chưa có biện pháp quản lý tốt để sử dụng có hiệu quả giá trị thặng dư vào sự nghiệp xây dựng đất nước. Nhận thức về sự ảnh hưởng của tích luỹ tư bản đối với sự biến động cung- cầu về HHSLĐ do C.Mác vạch ra cũng chưa nhận thức đầy đủ. Nhà nước chưa gắn kết được sự biến đổi của cơ cấu kinh tế với sự chuyển đổi cơ cấu giáo dục- đào tạo, cơ cấu lao động, làm cho cung- cầu về HHSLĐ chưa phù hợp với nhau. Cung về HHSLĐ vừa thừa vừa thiếu so với cầu về HHSLĐ. Sự mở rộng đầu tư, sản xuất kinh doanh của các nhà đầu tư cần nguồn lao động chất lượng cao đã không được đáp ứng. Sự biến động giá cả sức lao động theo biến động của chu kỳ phát triển công nghiệp tuy đã được Nhà nước quan tâm giải quyết nhưng vẫn chưa bảo đảm được quyền lợi cho người lao động. Tiền lương tổi thiểu tuy đã được điều chỉnh nhiều lần nhưng vẫn còn thấp, chưa thật sự tạo ra động lực thúc đẩy người lao động gắn bó chặt chẽ với doanh nghiệp. tiền lương vẫn chưa phản ánh đầy đủ giá trị sức lao động theo quan điểm của C.Mác và sự bất bình đẳng khó chấp nhận về tiền lương vẫn còn tồn tại giữa các thành phần kinh tế khác nhau, thậm chí trong cùng một thành phần kinh tế. Vai trò của Nhà nước và các tổ chức công đoàn đối với quan hệ lao động ở các doanh nghiệp tuy ngày càng hoàn thiện nhưng mối liên kết hoạt động giữa nhà nước, công đoàn, người lao động và người sử dụng lao động còn lỏng lẻo, hiệu quả chưa cao. Luật Lao động vẫn còn kẽ hở, cán bộ công đoàn chưa thật sự chuyên trách đã làm cho việc hoàn thiện quan hệ lao động ở cơ sở theo quan điểm của C.Mác chưa thật sự được đẩy mạnh. Chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, xây dựng công ty cổ phần để gắn kết quyền lợi của người lao động với hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty qua đó khắc phục sự tha hoá lao động theo quan điểm của C.Mác đạt kết quả chưa cao. Quá trình cổ phần hoá diễn ra chậm, người lao động không hứng thú với việc mua cổ phần, cổ phiếu. Tất cả điều đó cho thấy cơ chế thực hiện sở hữu về mặt kinh tế đối với sức lao động trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta còn lỏng lẻo, kém hiệu quả. Như vậy, thông qua việc giảng dạy người giảng viên sẽ cung cấp cho học viên cơ sở lý luận của các chính sách liên quan đến người lao động, việc nâng cao chất lượng nguồn lao động và phát triển thị trường sức lao động mà thời gian qua Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện. Đồng thời, thông qua bài học giảng viên cũng cần chỉ rõ cho học viên thấy việc vận dụng lý luận HHSLĐ của C.Mác trong điều kiện hiện nay, đòi hỏi phải nắm vững bản chất và xu thế phát triển của nền kinh tế thị trường Việt Nam, xác định rõ nền kinh tế nước ta đang ở trong bậc thang nào của tiến trình phát triển tất yếu của các hình thái kinh tế- xã hội và thực trạng nguồn nhân lực của đất nước. Mặt khác, việc vận dụng lý luận HHSLĐ của C.Mác còn đòi hỏi phải tìm ra được các giải pháp hữu ích nhằm tiếp tục vận dụng tốt các nội dung cơ bản trong lý luận HHSLĐ của C.Mác cho phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta./.

    Trả lời
  2. Kinh tế chính trị Mác – Lênin là môn học khái quát nhiều vấn đề cơ bản nhất trong học thuyết kinh tế chính trị mác- xít, mang tính trừu tượng cao, trữ lượng kiến thức lớn, gắn bó chặt chẽ với thực tiễn sinh động đang thay đổi hàng ngày. Lý luận hàng hoá sức lao động là một trong những nội dung quan trọng trong học thuyết kinh tế của C.Mác. Kế thừa có sáng tạo những quan điểm của các nhà kinh tế học cổ điển về lý lụân lao động, C.Mác đã nghiên cứu, xây dựng lý luận hàng hoá sức lao động (HHSLĐ), C.Mác đã vạch rõ nguồn gốc của giá trị thặng dư, bản chất, mục đích của nền sản xuất hàng hoá TBCN. Đồng thời khám phá ra quy luật chi phối sự vận động, phát triển của CNTB. Như vậy, lý luận HHSLĐ được C.Mác xây dựng trong nền kinh tế thị trường TBCN. Việt Nam đang trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, nền kinh tế này có sự khác biệt về chất so với nền kinh tế thị trường TBCN. Thông qua việc giảng dạy môn kinh tế chính trị người giảng viên cần làm rõ sự khác biệt về chất giữa nền kinh tế thị trường TBCN và nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đồng thời chỉ ra những nội dung cần vận dụng trong lý luận HHSLĐ của C.Mác vào thực tiễn phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay . Bài viết xin được đề cập một số nội dung mà giảng viên cần làm rõ sự vận dụng giữa lý luận và thực tiễn về lý luận hàng hoá sức lao động của C. Mác mà thời gian qua Đảng và Nhà nước ta đã làm: Thứ nhất, về điều kiện xuất hiện hàng hoá sức lao động, theo C. Mác sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong một cơ thể, trong một con người đang sống, và được người đó vận dụng mỗi khi đem sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó [, tr 251]. Sức lao động luôn có sẵn trong bất kỳ xã hội nào, nó không phụ thuộc vào hình thái xã hội. Tuy nhiên, chỉ trong một trình độ phát triển nhất định thì sức lao động mới trở thành hàng hoá. Đó là lúc xuất hiện hai điều kiện cơ bản: Một là, người có sức lao động phải được tự do về thân thể. Điều kiện này giúp họ có quyền quyết định đối với sức lao động của bản thân mình. Hai là, người lao động không có vốn liếng hay tư liệu sản xuất, tài sản duy nhất đảm bảo sự sống của họ chỉ là sức lao động. Vận dụng lý luận của C. Mác lý giải sự xuất hiện hàng hoá sức lao động ở nước ta cần phải có sự nhận thức mới, đặc biệt là đối với điều kiện sở hữu tư liệu sản xuất. Về điều kiện người lao động không có tư liệu sản xuất, muốn sống buộc phải bán sức lao động đã có sự biểu hiện mới. Đó là khi đời sống của công nhân lên cao, họ có tích luỹ và mua được cổ phiếu của công ty cổ phần và như vậy họ trở thành người chủ một phần phần vốn của công ty, chủ một phần tư liệu sản xuất và lao động thặng dư của họ được bồi hoàn lại, những người lao động này không phải không có tư liệu sản xuất, do vậy lao động của họ có tính chất hàng hoá, chứ không phải hàng hoá sức lao động theo đúng nguyên nghĩa mà C. Mác đã định nghĩa. Trường hợp này tồn tại trong thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể. Trong các thành phần kinh tế này, người lao động đều là người làm chủ tập thể tư liệu sản xuất, do vậy sức lao động của họ không phải là hàng hoá. Nhưng trong nền kinh tế thị trường, việc đánh giá sự cống hiến của người lao động vẫn phải dựa vào hình thức tiền lương. 

    Trả lời

Viết một bình luận