Quá trình tiến công của nhà Tống.Mỗi nhà Tống thôi nha các bn.
0 bình luận về “Quá trình tiến công của nhà Tống.Mỗi nhà Tống thôi nha các bn.”
Quân Tống sang đánh Đại Việt
Lực lượng của Tống
Ngay từ tháng 11 âm lịch năm 1075, sau khi Đại Việt công hãm Khâm Châu và Liêm Châu, Tống Thần Tông đã phong cho Thiên Chương các đãi chế Triệu Tiết làm An Nam đạo chiêu thảo sứ, Gia Châu phòng ngự sử Lý Hiến làm phó để chinh phạt Đại Việt[9]. Tuy nhiên, Triệu Tiết và Lý Hiến nghị bàn không hợp[10].
8 ngày sau khi thành Ung bị triệt phá, tức ngày 9 tháng 2 năm 1076, Tống Thần Tông ra chiếu đánh Đại Việt[5]. Tống sử chép là sau 13 ngày[9].
Mục tiêu của Tống Thần Tông và Vương An Thạch không chỉ nhằm phục thù mà vẫn chính là mục tiêu ban đầu việc ra quân đánh vào lãnh thổ Đại Việt: gây nhuệ khí cho chiến trường tây bắc với Tây Hạ và tạo uy thế với nước Liêu:
Lúc quân ta diệt được Giao Chỉ, uy ta sẽ có. Rồi ra bá cáo cho Thiểm Tây biết, quân dân Thiểm Tây sẽ có thắng khí. Với khí thắng ấy, ta sẽ nuốt tươi nước Hạ. Mà nếu nuốt nước Hạ thì còn ai dám quấy nhiễu Trung quốc nữa?[11]
Lực lượng đánh Đại Việt bao gồm khoảng 10 vạn quân, đặt dưới sự chỉ huy của Tuyên Huy nam viện sử Quách Quỳ (chức là An Nam đạo chiêu thảo sứ) và Triệu Tiết là phó tướng, bãi chức của Lý Hiến. Quân Tống gồm 2 thành phần, có 4,5 vạn quân là binh sĩ có kinh nghiệm chiến đấu từng chiến đấu với quân Liêu, Hạ; còn lại hơn 5 vạn quân là lính mới tuyển mộ ở các lộ Hà Bắc, Kinh Đông và quân mộ thêm trên đường hành binh từ kinh đô tới Ung Châu, cùng với quân khe động vùng biên giới. Bên cạnh 10 vạn quân chiến đấu, quân Tống còn có 20 vạn phu dịch và 1 vạn ngựa.[5]
Do phải chuẩn bị lương thực, thuốc men cũng như tuyển mộ quân lính và các vấn đề khác, mãi tới đầu năm 1077, quân Tống mới xuất phát được. Một đạo quân Tống trên bộ do đích thân Quách Quỳ chỉ huy xuất phát từ châu Ung tiến vào vùng Đông Bắc Đại Việt. Một đạo quân thủy do Dương Tiến Tùng chỉ huy xuất phát từ châu Lôi đi men bờ biển và tiến vào cửa sông Bạch Đằng.[5]
Lực lượng của Đại Việt
Sau chiến dịch đánh đòn phủ đầu thành công và rút quân về nước, Đại Việt chuẩn bị để đối phó với quân Tống sang đánh. Gián điệp Đại Việt đội lốt sư sãi dùng giấy tờ tu hành thu được ở Khâm, Liêm. Biết được, hoàng đế Tống ra lệnh cho lộ Quảng Tây đình việc cấp bằng cho các sư.[5]
Phía Đại Việt chuẩn bị lực lượng đánh gồm đánh chặn từ xa và tuyến phòng thủ sâu. Tướng Lý Kế Nguyên chịu trách nhiệm đánh đạo thủy quân của Tống. Còn Lý Thường Kiệt là tổng chỉ huy chung và trực tiếp chỉ huy đánh đạo quân bộ của đối phương. Để ngăn đạo lục quân Tống, Đại Việt bố trí hai tuyến phòng thủ – một ngay biên giới do các lực lượng của những thủ lĩnh dân tộc thiểu số chỉ huy và một ở bờ Nam sông Như Nguyệt (sông Cầu). Tuyến phòng thủ bờ Nam sông Như Nguyệt kéo dài khoảng 30 km suốt từ chân dãy núi Tam Đảo ngã ba sông Cà Lồ-sông Cầu tới Vạn Xuân (Phả Lại) lợi dụng các địa hình tự nhiên như bãi lầy, gò cao và cả các chiến lũy bằng đất, gỗ, rào tre.
Các trận đánh đầu tiên
Ngày 8 tháng 1 năm 1077[cần dẫn nguồn], Quách Quỳ và Triệu Tiết (趙禼) dẫn quân vượt qua ải Nam Quan tiến vào vùng Lạng Sơn ngày nay và đánh xuống phía kinh đô Thăng Long. Ngay từ đầu, quân Tống đã gặp phải sự chống cự hết sức mạnh mẽ của thổ binh do Thân Cảnh Phúc chỉ huy. Tiến công được vài chục dặm, quân Tống buộc phải tổ chức đột phá ải Quyết Lý. Tại đây Thân Cảnh Phúc đã bố trí mấy ngàn quân có cả voi chiến, để cố thủ cửa ải. Tư Kỷ chỉ huy đội tiền quân Tống cố sức công kích nhưng đều bị đẩy lùi. Quân Đại Việt dựa vào thế đất hiểm, có tổ chức phòng ngự vững chắc, đánh trả hết sức quyết liệt. Quách Quỳ buộc phải cử tướng Thế Cư chỉ huy một đạo tinh binh lên ứng chiến. Thấy cầm cự lâu không có lợi, Thân Cảnh Phúc đã chủ động lui quân về tuyến sau cố thủ cửa ải Chi Lăng. Biết ải Chi Lăng không những là đất hiểm mà còn được xây đắp kiên cố. Quân Tống cho một đội tiền quân tiến công vào chính diện. Còn hai đạo quân mạnh do Yên Đạt và Thế Cự chỉ huy đi vòng qua phía tây núi Cai Kinh, theo đường đất đánh bọc vào sau Chi Lăng, tạo nên thế hai mặt trước sau cùng đánh. Từ trên thành lũy và trên sườn núi cao, quân Đại Việt dùng Nỏ, và Máy bắn đá bắn vào đội hình xung phong của quân Tống, đồng thời Tượng binh xông ra phản kích. Quân Tống bị thương vong rất nhiều. Nhưng lực lượng chênh lệch rất lớn, lợi dụng đêm tối Thân Cảnh Phúc đã chỉ huy quân rút theo đường tắt, lui về phòng giữ căn cứ Động Giáp, chuyển sang đánh du kích phía sau lưng quân Tống.
Trong lúc đại quân của Quách Quỳ đang tiến công sang, thì đạo quân do Nhâm Khởi chỉ huy từ Vĩnh An đánh ngược lên Tô Mậu. Vị thủ lĩnh trấn giữ tại đây, chống cự không nổi, đầu hàng quân Tống. Nhâm Khởi cho quân theo hữu ngạn sông Lục Nam đánh xuống núi Nham Biền để trực tiếp bảo vệ sườn cánh trái của đạo quân Quách Quỳ. Đạo hữu quân do Khúc Trân (曲珍) chỉ huy, từ Quảng Nguyên đánh xuống Môn Châu. Hoàng Kim Mãn chấn giữ châu này đầu hàng quân Tống, thành Môn Châu nhanh chóng bị mất.
Đạo quân Triệu Tiết (phó tướng) là một lực lượng đột kích chiến lược trên hướng thứ yếu, có sự yểm trợ trực tiếp của hữu quân Khúc Trân phía sườn phải, nhanh chóng vượt biên giới xuống Bình Gia, Vạn Nhai. Tại những nơi này quân Đại Việt chỉ có những lực lượng nhỏ án ngữ bởi thế Triệu Tiết nhanh chóng vượt qua, tiến thẳng xuống Nhã Nam và bến Như Nguyệt.[12]
Trận thủy chiến Đông Kênh
Đạo thủy quân Tống do Dương Tùng Tiên chỉ huy, khoảng 5-6 vạn cùng vài trăm chiến thuyền loại lớn tiến vào hải phận Đại Việt để phối hợp với đạo quân của Quách Quỳ theo kế hoạch đã định trước. Đạo quân này tiến theo đội hình hàng dọc. Đi đầu là đội quân với nhiệm vụ trinh sát, sau đó đến trung quân, hậu quân là đoàn thuyền lương. Quân của Dương Tùng Tiên không phát hiện được quân Đại Việt mai phục ở sông Đông Kênh, nên đã lệnh cho toàn quân tiến gấp vào sông Bạch Đằng. Khi hạm đội Tống đã lọt vào trận địa mai phục, Lý Kế Nguyên phát lệnh tiến công. Bị đánh bất ngờ, quân Tống thua to, dù hạm đội của họ tuy lớn, có nhiều thuyền chiến nhưng chỉ là loại thương thuyền nặng nề cơ động chậm, thủy binh là quân ô hợp. Thủy binh của Đại Việt là những chiến binh thiện chiến, dùng thuyền nhỏ nhẹ, cơ động, lại dựa vào thế hiểm để lập thành thế trận mai phục dài tới vài chục dặm. Các thủy đội của họ đều dựa vào hải đảo hoặc cửa sông để triển khai lực lượng.
Trong các trận giao chiến với Đại Việt, quân Tống đều thua lớn. Hơn trăm chiến thuyền bị đánh chìm, hàng vạn quân bị giết và bị bắt. Dương Tùng Tiên phải ra lệnh cho các chiến thuyền còn lại chạy về phía đông để tránh bị tiêu dệt hoàn toàn. Phải mấy ngày sau họ mới tập hợp được số chiến thuyền còn lại về vùng biển Liêm Châu, lập thủy trại cố thủ.
Thắng lợi của trận thủy chiến Đông Kênh đã làm thất bại hoàn toàn kế hợp vòng chiến lược của Quách Quỳ, và đẩy Quách Quỳ, Triệu Tiết vào hoàn cảnh không có phương tiện cho đại quân vượt sông.[13]
Trận sông Như Nguyệt
Bài chi tiết: Trận Như Nguyệt
Ngày 18 tháng 1, quân Tống tới bờ Bắc sông Như Nguyệt, đối diện với tuyến phòng thủ chủ lực của quân Đại Việt. Quân Tống không đánh ngay mà đợi đạo thủy quân tới để hợp đồng tác chiến vượt sông. Trong khi chờ, đại quân Tống chia làm hai cánh. Cánh phía Tây do Triệu Tiết chỉ huy đóng tập trung ở vùng này là Hiệp Hòa. Cánh phía Đông do Quách Quỳ chỉ huy đóng tập trung ở vùng có thể nay là thành phố Bắc Ninh. Ở giữa hai điểm tập trung trên, quân Tống còn chiếm một số vị trí là các gò cao.
Chờ thủy quân không thấy, lục quân Tống quyết định tấn công. Quân Tống đã tổ chức 2 đợt tấn công lớn. Đợt thứ nhất đã chọc thủng được phòng tuyến của Đại Việt. Nhưng do tiến quân quá nhanh, lực lượng Tống thâm nhập khoảng 1.000-2.000 quân trở nên đơn độc và khi tiến đến vùng Sóc Sơn ngày nay thì bị quân Đại Việt vây đánh phải rút lui, chịu tốn thất khoảng 1.000 người. Đợt thứ hai, quân Tống đóng bè lớn để đưa quân sang bờ Nam sông Như Nguyệt, nhưng đợt nào sang cũng bị tiêu diệt gần hết. Quân Tống, sau 2 đợt tấn công thất bại đành tiếp tục đợi thủy quân đến.
Sau 2 tháng, thấy quân Tống có dấu hiệu mết mỏi, quân Đại Việt phản công. Ban đầu, quân Đại Việt tổ chức tấn công vào cánh của Quách Quỳ, song đã chịu thất bại. Hai hoàng tử nhà Lý là Lý Hoằng Chân và Lý Chiêu Văn đã hy sinh. Sau thất bại này và nhận thấy quân Tống đang tập trung chú ý vào mặt trận phía Đông, quân Đại Việt liền tổ chức vượt sông đánh bất ngờ vào cánh quân phía Tây của Triệu Tiết. Trận này, quân Đại Việt thắng lớn. Trong khi quân Tống rối loạn vì cánh phía Tây bị tập kích, quân Đại Việt tiếp tục đổ bộ đánh vào cánh quân phía Đông.
Giảng hòa
Sau khi giành được thắng lợi quân sự tại phòng tuyến Như Nguyệt, Đại Việt chủ động nghị hòa với quân Tống.Sứ thần Kiều Văn Ứng cho Quách Quỳ biết là vua Lý sẽ sai sứ sang xin tạ tội vì đã kéo quân đánh Khâm châu và Liêm châu và xin tiếp tục nộp cống. Ông cũng bào chữa việc đánh Tống trước là do Từ Bá Tường xúi giục[14]. Tống sử chép rằng phía quân Tống “số quân đem đi 10 vạn, phu 20 vạn, nay đã chết mất quá nửa, số còn lại thì ốm đau, lương ăn đã cạn”[15]. Tống sử, Quách Quỳ truyện chép rằng: 時兵夫三十萬人,冒暑涉瘴地,死者過半。至是,與賊隔一水不得進,乃班師. (“Thì binh phu tam thập vạn nhân, mạo thử thiệp chướng địa, tử giả quá bán. Chí thị, dữ tặc cách nhất thủy bất đắc tiến, nãi ban sư” nghĩa là Đem binh phu đi 30 vạn người, gặp phải nắng nóng đất độc, chết quá nửa. Đến nay, lại cách giặc một con sông không thể tiến lên, bèn đem quân về.)[16]. Quách Quỳ nhận lời giảng hòa, nhưng nói rằng: “Ta không thể đạp đổ được sào huyệt giặc, bắt được Càn Đức để báo mệnh triều đình. Tại trời vậy! Thôi đành liều một thân ta để cứu hơn 10 vạn nhân mạng”.[17] Tuy nhiên, Trình Di và Trình Hạo trong Nhị Trình di thư nhận xét rằng: “May được lời giặc nói nhũn, liền nhân đó giảng hòa. Nếu không có lời quy thuận của giặc thì làm thế nào?”
Tháng 3 năm 1077, Quách Quỳ rút quân về nước, quân Tống rút đến đâu, quân Đại Việt theo sau chiếm lại đến đó. Tống sử chép về cuộc rút quân như sau: “Quỳ muốn rút quân về, sợ giặc tập kích bèn bắt quân khởi hành ban đêm, hàng ngũ không được chỉnh tề, tình hình hỗn loạn, giày xéo lên nhau”.
Sau khi về nước, khi kiểm binh, trong số 10 vạn lính Tống ban đầu chỉ còn 23.400 lính trở về, 1 vạn ngựa chiến thì còn lại 3.174 con. Số dân phu 20 vạn trở về không được một nửa. Phí tổn chiến tranh được triều Tống tính ra là 5.190.000 lạng vàng. Quách Quỳ bị quy tội vì đã trì hoãn không chịu tiến binh nên bị đổi đi Ngạc Châu, rồi giáng làm tả vệ tướng quân và an trí (quản thúc tại gia) ở Tây Kinh. Triệu Tiết chỉ bị kết tội không lập tức dẹp giặc, giáng làm Trực Long Đồ các, tri Quế Châu[18]
Năm Mậu Ngọ (1078) Lý Nhân Tông mở cuộc giao hảo với nhà Tống. Sứ thần Đại Việt là Đào Tông Nguyên đưa năm con voi đă thuần sang cống vua Tống và đi đòi lại những châu, huyện ở miền Cao Bằng. Tống triều ưng thuận với điều kiện là quân Lý phải trả lại cho nhà Tống những thường dân Tống ở các châu Khâm, Liêm, Ung bị quân Lý bắt đem về nước làm nô tì trong năm 1075. Thường dân Tống bị bắt hơn ngàn người nhưng quân nhà Lý chỉ trả tất cả là 221 người[19]. Trước khi cho họ về, nhà Lý cho thích vào trán con trai từ 15 tuổi trở lên ba chữ “Thiên tử binh”, đàn ông từ 20 tuổi trở lên thích chữ “Đầu Nam Triều” và vào cánh tay trái đàn bà con gái hai chữ “Quan Khách” để làm nhục nhà Tống.
Quân Tống sang đánh Đại Việt
Lực lượng của Tống
Ngay từ tháng 11 âm lịch năm 1075, sau khi Đại Việt công hãm Khâm Châu và Liêm Châu, Tống Thần Tông đã phong cho Thiên Chương các đãi chế Triệu Tiết làm An Nam đạo chiêu thảo sứ, Gia Châu phòng ngự sử Lý Hiến làm phó để chinh phạt Đại Việt[9]. Tuy nhiên, Triệu Tiết và Lý Hiến nghị bàn không hợp[10].
8 ngày sau khi thành Ung bị triệt phá, tức ngày 9 tháng 2 năm 1076, Tống Thần Tông ra chiếu đánh Đại Việt[5]. Tống sử chép là sau 13 ngày[9].
Mục tiêu của Tống Thần Tông và Vương An Thạch không chỉ nhằm phục thù mà vẫn chính là mục tiêu ban đầu việc ra quân đánh vào lãnh thổ Đại Việt: gây nhuệ khí cho chiến trường tây bắc với Tây Hạ và tạo uy thế với nước Liêu:
Lúc quân ta diệt được Giao Chỉ, uy ta sẽ có. Rồi ra bá cáo cho Thiểm Tây biết, quân dân Thiểm Tây sẽ có thắng khí. Với khí thắng ấy, ta sẽ nuốt tươi nước Hạ. Mà nếu nuốt nước Hạ thì còn ai dám quấy nhiễu Trung quốc nữa?[11]
Lực lượng đánh Đại Việt bao gồm khoảng 10 vạn quân, đặt dưới sự chỉ huy của Tuyên Huy nam viện sử Quách Quỳ (chức là An Nam đạo chiêu thảo sứ) và Triệu Tiết là phó tướng, bãi chức của Lý Hiến. Quân Tống gồm 2 thành phần, có 4,5 vạn quân là binh sĩ có kinh nghiệm chiến đấu từng chiến đấu với quân Liêu, Hạ; còn lại hơn 5 vạn quân là lính mới tuyển mộ ở các lộ Hà Bắc, Kinh Đông và quân mộ thêm trên đường hành binh từ kinh đô tới Ung Châu, cùng với quân khe động vùng biên giới. Bên cạnh 10 vạn quân chiến đấu, quân Tống còn có 20 vạn phu dịch và 1 vạn ngựa.[5]
Do phải chuẩn bị lương thực, thuốc men cũng như tuyển mộ quân lính và các vấn đề khác, mãi tới đầu năm 1077, quân Tống mới xuất phát được. Một đạo quân Tống trên bộ do đích thân Quách Quỳ chỉ huy xuất phát từ châu Ung tiến vào vùng Đông Bắc Đại Việt. Một đạo quân thủy do Dương Tiến Tùng chỉ huy xuất phát từ châu Lôi đi men bờ biển và tiến vào cửa sông Bạch Đằng.[5]
Lực lượng của Đại Việt
Sau chiến dịch đánh đòn phủ đầu thành công và rút quân về nước, Đại Việt chuẩn bị để đối phó với quân Tống sang đánh. Gián điệp Đại Việt đội lốt sư sãi dùng giấy tờ tu hành thu được ở Khâm, Liêm. Biết được, hoàng đế Tống ra lệnh cho lộ Quảng Tây đình việc cấp bằng cho các sư.[5]
Phía Đại Việt chuẩn bị lực lượng đánh gồm đánh chặn từ xa và tuyến phòng thủ sâu. Tướng Lý Kế Nguyên chịu trách nhiệm đánh đạo thủy quân của Tống. Còn Lý Thường Kiệt là tổng chỉ huy chung và trực tiếp chỉ huy đánh đạo quân bộ của đối phương. Để ngăn đạo lục quân Tống, Đại Việt bố trí hai tuyến phòng thủ – một ngay biên giới do các lực lượng của những thủ lĩnh dân tộc thiểu số chỉ huy và một ở bờ Nam sông Như Nguyệt (sông Cầu). Tuyến phòng thủ bờ Nam sông Như Nguyệt kéo dài khoảng 30 km suốt từ chân dãy núi Tam Đảo ngã ba sông Cà Lồ-sông Cầu tới Vạn Xuân (Phả Lại) lợi dụng các địa hình tự nhiên như bãi lầy, gò cao và cả các chiến lũy bằng đất, gỗ, rào tre.
Các trận đánh đầu tiên
Ngày 8 tháng 1 năm 1077[cần dẫn nguồn], Quách Quỳ và Triệu Tiết (趙禼) dẫn quân vượt qua ải Nam Quan tiến vào vùng Lạng Sơn ngày nay và đánh xuống phía kinh đô Thăng Long. Ngay từ đầu, quân Tống đã gặp phải sự chống cự hết sức mạnh mẽ của thổ binh do Thân Cảnh Phúc chỉ huy. Tiến công được vài chục dặm, quân Tống buộc phải tổ chức đột phá ải Quyết Lý. Tại đây Thân Cảnh Phúc đã bố trí mấy ngàn quân có cả voi chiến, để cố thủ cửa ải. Tư Kỷ chỉ huy đội tiền quân Tống cố sức công kích nhưng đều bị đẩy lùi. Quân Đại Việt dựa vào thế đất hiểm, có tổ chức phòng ngự vững chắc, đánh trả hết sức quyết liệt. Quách Quỳ buộc phải cử tướng Thế Cư chỉ huy một đạo tinh binh lên ứng chiến. Thấy cầm cự lâu không có lợi, Thân Cảnh Phúc đã chủ động lui quân về tuyến sau cố thủ cửa ải Chi Lăng. Biết ải Chi Lăng không những là đất hiểm mà còn được xây đắp kiên cố. Quân Tống cho một đội tiền quân tiến công vào chính diện. Còn hai đạo quân mạnh do Yên Đạt và Thế Cự chỉ huy đi vòng qua phía tây núi Cai Kinh, theo đường đất đánh bọc vào sau Chi Lăng, tạo nên thế hai mặt trước sau cùng đánh. Từ trên thành lũy và trên sườn núi cao, quân Đại Việt dùng Nỏ, và Máy bắn đá bắn vào đội hình xung phong của quân Tống, đồng thời Tượng binh xông ra phản kích. Quân Tống bị thương vong rất nhiều. Nhưng lực lượng chênh lệch rất lớn, lợi dụng đêm tối Thân Cảnh Phúc đã chỉ huy quân rút theo đường tắt, lui về phòng giữ căn cứ Động Giáp, chuyển sang đánh du kích phía sau lưng quân Tống.
Trong lúc đại quân của Quách Quỳ đang tiến công sang, thì đạo quân do Nhâm Khởi chỉ huy từ Vĩnh An đánh ngược lên Tô Mậu. Vị thủ lĩnh trấn giữ tại đây, chống cự không nổi, đầu hàng quân Tống. Nhâm Khởi cho quân theo hữu ngạn sông Lục Nam đánh xuống núi Nham Biền để trực tiếp bảo vệ sườn cánh trái của đạo quân Quách Quỳ. Đạo hữu quân do Khúc Trân (曲珍) chỉ huy, từ Quảng Nguyên đánh xuống Môn Châu. Hoàng Kim Mãn chấn giữ châu này đầu hàng quân Tống, thành Môn Châu nhanh chóng bị mất.
Đạo quân Triệu Tiết (phó tướng) là một lực lượng đột kích chiến lược trên hướng thứ yếu, có sự yểm trợ trực tiếp của hữu quân Khúc Trân phía sườn phải, nhanh chóng vượt biên giới xuống Bình Gia, Vạn Nhai. Tại những nơi này quân Đại Việt chỉ có những lực lượng nhỏ án ngữ bởi thế Triệu Tiết nhanh chóng vượt qua, tiến thẳng xuống Nhã Nam và bến Như Nguyệt.[12]
Trận thủy chiến Đông Kênh
Đạo thủy quân Tống do Dương Tùng Tiên chỉ huy, khoảng 5-6 vạn cùng vài trăm chiến thuyền loại lớn tiến vào hải phận Đại Việt để phối hợp với đạo quân của Quách Quỳ theo kế hoạch đã định trước. Đạo quân này tiến theo đội hình hàng dọc. Đi đầu là đội quân với nhiệm vụ trinh sát, sau đó đến trung quân, hậu quân là đoàn thuyền lương. Quân của Dương Tùng Tiên không phát hiện được quân Đại Việt mai phục ở sông Đông Kênh, nên đã lệnh cho toàn quân tiến gấp vào sông Bạch Đằng. Khi hạm đội Tống đã lọt vào trận địa mai phục, Lý Kế Nguyên phát lệnh tiến công. Bị đánh bất ngờ, quân Tống thua to, dù hạm đội của họ tuy lớn, có nhiều thuyền chiến nhưng chỉ là loại thương thuyền nặng nề cơ động chậm, thủy binh là quân ô hợp. Thủy binh của Đại Việt là những chiến binh thiện chiến, dùng thuyền nhỏ nhẹ, cơ động, lại dựa vào thế hiểm để lập thành thế trận mai phục dài tới vài chục dặm. Các thủy đội của họ đều dựa vào hải đảo hoặc cửa sông để triển khai lực lượng.
Trong các trận giao chiến với Đại Việt, quân Tống đều thua lớn. Hơn trăm chiến thuyền bị đánh chìm, hàng vạn quân bị giết và bị bắt. Dương Tùng Tiên phải ra lệnh cho các chiến thuyền còn lại chạy về phía đông để tránh bị tiêu dệt hoàn toàn. Phải mấy ngày sau họ mới tập hợp được số chiến thuyền còn lại về vùng biển Liêm Châu, lập thủy trại cố thủ.
Thắng lợi của trận thủy chiến Đông Kênh đã làm thất bại hoàn toàn kế hợp vòng chiến lược của Quách Quỳ, và đẩy Quách Quỳ, Triệu Tiết vào hoàn cảnh không có phương tiện cho đại quân vượt sông.[13]
Trận sông Như Nguyệt
Bài chi tiết: Trận Như Nguyệt
Ngày 18 tháng 1, quân Tống tới bờ Bắc sông Như Nguyệt, đối diện với tuyến phòng thủ chủ lực của quân Đại Việt. Quân Tống không đánh ngay mà đợi đạo thủy quân tới để hợp đồng tác chiến vượt sông. Trong khi chờ, đại quân Tống chia làm hai cánh. Cánh phía Tây do Triệu Tiết chỉ huy đóng tập trung ở vùng này là Hiệp Hòa. Cánh phía Đông do Quách Quỳ chỉ huy đóng tập trung ở vùng có thể nay là thành phố Bắc Ninh. Ở giữa hai điểm tập trung trên, quân Tống còn chiếm một số vị trí là các gò cao.
Chờ thủy quân không thấy, lục quân Tống quyết định tấn công. Quân Tống đã tổ chức 2 đợt tấn công lớn. Đợt thứ nhất đã chọc thủng được phòng tuyến của Đại Việt. Nhưng do tiến quân quá nhanh, lực lượng Tống thâm nhập khoảng 1.000-2.000 quân trở nên đơn độc và khi tiến đến vùng Sóc Sơn ngày nay thì bị quân Đại Việt vây đánh phải rút lui, chịu tốn thất khoảng 1.000 người. Đợt thứ hai, quân Tống đóng bè lớn để đưa quân sang bờ Nam sông Như Nguyệt, nhưng đợt nào sang cũng bị tiêu diệt gần hết. Quân Tống, sau 2 đợt tấn công thất bại đành tiếp tục đợi thủy quân đến.
Sau 2 tháng, thấy quân Tống có dấu hiệu mết mỏi, quân Đại Việt phản công. Ban đầu, quân Đại Việt tổ chức tấn công vào cánh của Quách Quỳ, song đã chịu thất bại. Hai hoàng tử nhà Lý là Lý Hoằng Chân và Lý Chiêu Văn đã hy sinh. Sau thất bại này và nhận thấy quân Tống đang tập trung chú ý vào mặt trận phía Đông, quân Đại Việt liền tổ chức vượt sông đánh bất ngờ vào cánh quân phía Tây của Triệu Tiết. Trận này, quân Đại Việt thắng lớn. Trong khi quân Tống rối loạn vì cánh phía Tây bị tập kích, quân Đại Việt tiếp tục đổ bộ đánh vào cánh quân phía Đông.
Giảng hòa
Sau khi giành được thắng lợi quân sự tại phòng tuyến Như Nguyệt, Đại Việt chủ động nghị hòa với quân Tống.Sứ thần Kiều Văn Ứng cho Quách Quỳ biết là vua Lý sẽ sai sứ sang xin tạ tội vì đã kéo quân đánh Khâm châu và Liêm châu và xin tiếp tục nộp cống. Ông cũng bào chữa việc đánh Tống trước là do Từ Bá Tường xúi giục[14]. Tống sử chép rằng phía quân Tống “số quân đem đi 10 vạn, phu 20 vạn, nay đã chết mất quá nửa, số còn lại thì ốm đau, lương ăn đã cạn”[15]. Tống sử, Quách Quỳ truyện chép rằng: 時兵夫三十萬人,冒暑涉瘴地,死者過半。至是,與賊隔一水不得進,乃班師. (“Thì binh phu tam thập vạn nhân, mạo thử thiệp chướng địa, tử giả quá bán. Chí thị, dữ tặc cách nhất thủy bất đắc tiến, nãi ban sư” nghĩa là Đem binh phu đi 30 vạn người, gặp phải nắng nóng đất độc, chết quá nửa. Đến nay, lại cách giặc một con sông không thể tiến lên, bèn đem quân về.)[16]. Quách Quỳ nhận lời giảng hòa, nhưng nói rằng: “Ta không thể đạp đổ được sào huyệt giặc, bắt được Càn Đức để báo mệnh triều đình. Tại trời vậy! Thôi đành liều một thân ta để cứu hơn 10 vạn nhân mạng”.[17] Tuy nhiên, Trình Di và Trình Hạo trong Nhị Trình di thư nhận xét rằng: “May được lời giặc nói nhũn, liền nhân đó giảng hòa. Nếu không có lời quy thuận của giặc thì làm thế nào?”
Tháng 3 năm 1077, Quách Quỳ rút quân về nước, quân Tống rút đến đâu, quân Đại Việt theo sau chiếm lại đến đó. Tống sử chép về cuộc rút quân như sau: “Quỳ muốn rút quân về, sợ giặc tập kích bèn bắt quân khởi hành ban đêm, hàng ngũ không được chỉnh tề, tình hình hỗn loạn, giày xéo lên nhau”.
Sau khi về nước, khi kiểm binh, trong số 10 vạn lính Tống ban đầu chỉ còn 23.400 lính trở về, 1 vạn ngựa chiến thì còn lại 3.174 con. Số dân phu 20 vạn trở về không được một nửa. Phí tổn chiến tranh được triều Tống tính ra là 5.190.000 lạng vàng. Quách Quỳ bị quy tội vì đã trì hoãn không chịu tiến binh nên bị đổi đi Ngạc Châu, rồi giáng làm tả vệ tướng quân và an trí (quản thúc tại gia) ở Tây Kinh. Triệu Tiết chỉ bị kết tội không lập tức dẹp giặc, giáng làm Trực Long Đồ các, tri Quế Châu[18]
Năm Mậu Ngọ (1078) Lý Nhân Tông mở cuộc giao hảo với nhà Tống. Sứ thần Đại Việt là Đào Tông Nguyên đưa năm con voi đă thuần sang cống vua Tống và đi đòi lại những châu, huyện ở miền Cao Bằng. Tống triều ưng thuận với điều kiện là quân Lý phải trả lại cho nhà Tống những thường dân Tống ở các châu Khâm, Liêm, Ung bị quân Lý bắt đem về nước làm nô tì trong năm 1075. Thường dân Tống bị bắt hơn ngàn người nhưng quân nhà Lý chỉ trả tất cả là 221 người[19]. Trước khi cho họ về, nhà Lý cho thích vào trán con trai từ 15 tuổi trở lên ba chữ “Thiên tử binh”, đàn ông từ 20 tuổi trở lên thích chữ “Đầu Nam Triều” và vào cánh tay trái đàn bà con gái hai chữ “Quan Khách” để làm nhục nhà Tống.
Nhà tống chia ra làm 2 đường: +Đường thuỷ do Quách Quỳ chỉ huy. +Đường bộ do Hoà Mâu chỉ huy