Qua văn bản tinh thần yêu nước của nhân dân ta . Em hãy viết 1 bài văn nêu suy nghĩ của em sau khi đọc xong văn bản

Qua văn bản tinh thần yêu nước của nhân dân ta . Em hãy viết 1 bài văn nêu suy nghĩ của em sau khi đọc xong văn bản

0 bình luận về “Qua văn bản tinh thần yêu nước của nhân dân ta . Em hãy viết 1 bài văn nêu suy nghĩ của em sau khi đọc xong văn bản”

  1. “Nhân dân ta từ xưa đến nay có một lòng nồng nàn yêu nước”. Đó là truyền thống quý báu của dân tộc ta . Ngày trước, khi đát nước rơi vào vòng kìm kẹp với những thế lực lăm le xâm lược bờ cõi, nhân dân ta với tất cả lòng yêu nước của mình đã anh dũng đứng lên chống lại quân thù xâm lược. Biết bao người anh hùng đã ngã xuống nơi biên cương, trận mạc , biết bao nấm mồ vô danh đã được dựng lên bên kia đường. Âý vậy, nhưng cái chết không làm dân ta nao lúng. Bằng tất cả tình yêu nước, lòng sục sôi căm thù giặc và ý chí kiên cường, nhân dân ta đã dũng cảm đứng lên đánh phá quân thù xâm lược, giành lại tự do cho nước nhà. Ngày nay, khi mà bờ cõi đã được yeen ổn, hòa bình, tinh thần yêu nước ấy vẫn không hề bị giảm sút. Nhân dân ta tiếp tục sản xuất, tăng gia, tạo ra những của cải , vật chất phục vụ cho cuộc sống sinh hoạt của cộng dồng. Không những vậy, những người dân trong xóm làng còn đoàn kết, yêu thương, đùm bọc lẫn nhau, cùng nhau phấn đấu xây dựng gia đình, thôn xã ngày một giàu mạnh. Đặc biệt là thế hệ thanh niên – những mầm xanh của đất nước, ý thức được vai trò, trách nhiệm của mình với non sông, thanh niên ngày càng sôi nổi hơn trong những phong trào của đoàn thế. Các bạn trẻ đã ra sức cống hiến, học tập và không ngừng trau dồi, hoàn thiện bản thân để phát triển mình và phục vụ được nhiều hơn cho tổ quốc. Có biết bao cái tên khiên người ta tự hào như Nguyễn Thị Ánh Viên, anh em Quốc Cường, Quốc Bảo ,…. Họ đã mang tên tuổi của Việt Nam vươn tầm thế giới. Đó quả thực là những tấm gương tiêu biểu cho lòng yêu nước và niềm tự hào dân tộc của nhân dân ta . Họ đã làm được, vậy tại sao chúng ta lại không thể ? Thiết nghĩ, mỗi cá nhân hãy không ngừng phấn đấu, học tập và rèn luyện để ngày càng phát triển mình. Một khi đã thực sự tài năng , ta hoàn toàn có thể cống hiến nhiều hơn cho tổ quốc và thể hiện lòng yêu nước nồng nàn của mình với non sông. Đó cũng chính là cách mà người Việt Nam chứng minh cho Thế Gioi thấy tinh thần yêu nước nồng nàn của dân tộc mình.

    Bình luận
  2.     Tình cảm yêu nước là sợi chỉ đỏ xuyên suốt chiều dài lịch sử văn học dân tộc. Tình cảm đó được thể hiện mãnh liệt trong những lời tâm huyết của những nhà lãnh đạo đất nước từ xa xưa. Ta có thể kể đến những văn bản tiêu biểu như “Chiếu dời đô” của Lí Thái Tổ, “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn.

        Chiếu dời đô ra đời khi Lí Thái Tổ mới lên ngôi. Nhà vua mong muốn đất nước có một kinh đô đàng hoàng to rộng đặng bề phát triển đất nước. Đó là lí do vì sao ông đã phê phán và chỉ ra việc đóng đô ở vùng Hoa Lư đã không còn phù hợp nữa: “Cứ đóng yên đô thành ở nơi đây, khiến cho triều đại không được lâu bền, số phận ngắn ngủi, trăm họ phải hao tổn, muôn vật không được thích nghi”. Hoa Lư là vùng có địa thế hiểm trở, khi tiềm lực phát triển chưa đủ mạnh thì nó hợp với chiến lược phòng thủ. Nhưng đến đời Lí thì đất nước đặt ra nhu cầu phát triển, cho nên đô thành phải dời chuyển ra nơi có địa thế khác. Không chỉ cỏ lí lẽ, Lí Công Uẩn bày tỏ cả tấm lòng mình: “Trẫm rất đau xót về việc đó”. Tình cảm của một ông vua luôn hướng về vận mệnh, sự tồn vong của giang sơn xã tắc khiến người đọc cảm động.Bởi tấm lòng đau đáu nghĩ đến một mảnh đất thiêng có thể phù trợ cho việc phát triển đất nước, nhà vua đã nhìn ra thế đất của thành Đại La. Đó là nơi có vị thế thuận lợi về nhiều mặt, về mật địa lí, tác giả phân tích rõ: Nơi trung tâm trời đất; được cái thế rồng cuộn hổ ngồi”, bốn hướng đều thông thoáng lại ở thế “nhìn sông dựa núi” vững vàng, “địa thế rộng mà bằng; đất đai cao mà thoáng”. Trên địa thế ấy, dân cư sẽ tránh được lụt lội mà “muôn vật cũng rất mực phong phú tốt tươi”. Thuận lợi về mặt địa lí như vậy sẽ kéo theo những thuận lợi về thông thương, giao lưu: “Thật là chốn tụ hội trọng yếu của bốn phương đất nước“. Nơi định đô mới này sẽ đáp ứng được vai trò là đầu mối trung tâm của kinh tế, chính trị, văn hoá của đất nước.Trong “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn, tấm lòng yêu nước lại được thể hiện trực tiếp qua nhiều phương diện. Tác giả lột tả sự ngang ngược và tội ác của giặc: “Ngó thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ, thác mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa, để thoả lòng tham không cùng, giả hiệu Vân Nam Vương mà thu vàng bạc, để vét của kho có hạn. Thật khác nào như đem thịt mà nuôi hổ đói, sao cho khỏi để tai vạ về sau!”. Qua những câu văn đó, bộ mặt của quân giặc được phơi bày đồng thời tác giả cũng bày tỏ thái độ căm thù, khinh bỉ cực độ của mình đối với bọn chúng. Điều đó được thể hiện đậm nét qua việc tác giả đã dùng lối nói hình ảnh so sánh, ẩn dụ: lưỡi cú diều, thân dê chó, hổ đói,… ; các hình ảnh được đặt trong thế đối sánh để tỏ rõ thái độ căm thù, khinh bỉ: uốn lưỡi cú diều – sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó – bắt nạt tể phụ. Chẳng những vậy, tấm lòng yêu nước của vị đại tướng đáng kính còn được thể hiện sâu đậm qua tấm lòng của một chủ tướng đối với binh lính của mình: “Các ngươi ở cùng ta coi giữ binh quyền đã lâu ngày, (…) lúc trận mạc xông pha thì cùng nhau sống chết, lúc ở nhà nhàn hạ thì cùng nhau vui cười.” Đó thật là tấm lòng phụ tử đáng cảm động vậy!

        Có thể nói, tấm lòng yêu nước của các tác giả được thể hiện qua hai văn bản “Chiếu dời đô” của Lí Thái Tổ, “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn” rất đa dạng, nhiều vẻ khác nhau song đều tựu chung ở mong muốn đất nước an bình, phát triển trù phú. Tấm lòng đó chẳng những được thể hiện một cách cảm động qua hai văn bản mà còn được hai nhà lãnh đạo kì tài chứng minh bằng những đóng góp thực tiễn cho lịch sử phát triển hào hùng của dân tộc.

    chúc bạn học tốt

    Bình luận

Viết một bình luận